+/ Gần 2 năm trước, blog là công cụ để trút mọi thứ thổ tả trong ngày. Rồi có thân yêu, tức là có gì đó rất lạ để quên đi đống thổ tả. Thói quen trút, trút, trút mọi thứ mất dần. Nó chỉ hậm hực đánh dấu sự có mặt bằng 1 kỳ đi công tác của thân yêu.
Tới gần đây thì nó đang trở lại. Đúng, trở lại rồi!
Tớ cũng chẳng biết có ai sẽ thường xuyên theo dõi những con chữ này. Tớ cũng không biết tớ type những điều tớ nghĩ thì sẽ ra sao. Trước tiên là nó giải phóng tớ cái đã.
Tớ rất ân hận vì đã treo cái ảnh ngồi tập đàn. Theo như Chồng Ngố nói thì là "giống một con cún đang buồn". Mà tớ thấy một con cún đang buồn thì không có gram nào gọi là "rất rất đáng yêu" như bạn ấy nói.
+/ Tối qua ngồi bia với xúc xích hun khói. Có 2 đứa thôi. Ngồi có 2 tiếng, rồi lên phòng ngắm nghía 2 cái giá sách.
Tại sao lại thích đọc sách?
Có thể xem là những đối tượng loay hoay không biết làm gì với tuổi trẻ của mình? Ẩn mình trong sách chờ ngày độc lập??
Tóm lại, cuộc đời lại đáng sống! Tại sao ah? vì:"hai đứa bọn mày như 2 đứa bệnh tâm thần ấy. Lúc nào cũng thấy bọn mày chán một cái gì đó, hay tất cả mọi thứ, hoặc đôi khi chẳng là thứ gì. Nhưng rõ ràng là bọn bay chán gì đó".
+/ Tôi á, tôi muốn thoát khỏi cái chốn ngục tù này. Những giấc ngủ gợi lại hình ảnh ông ấy, khiến tôi muốn vomit. Tại sao nó cứ tồn đọng trong kho trí nhớ? Có God mới biết được.
Ông nói ông xin lỗi rồi, "sao con lại như thế?". Muốn vomit.
+/ Lời hứa lúc bình minh
Tuyệt!
+/ Xem
Over and over I whisper your name. Over and over I kiss you again
TT&NT
25.12.09
+/ Ngày tớ đến nhà cậu khóc bù lu bù loa vì ý định muốn được làm single mum bằng mọi giá, mọi cách. Đứa nào ngồi quỳ gối lấy ngón tay cái quệt nước mắt cho tớ, rồi đưa ngón tay vào lưỡi nếm? Lại còn nhìn mình ánh mắt cứ như thể "thời ngông cuồng ấy của tớ đã qua rồi". Ôm mình ra vẻ "tớ hiểu, tớ hiểu" :D
Tự nhiên hôm qua nhớ lại hình ảnh ấy. Mới chợt nhận ra, thằng bạn ấy đôi khi cũng tình cảm :)
+/ Sau đêm Noel, không ngờ mắt nhắm mắt mở dậy lại có tin nhắn thế này:
"Vo oi... Sao vo lai noi do^i Chong? :( ????"
...
"Lam ca toi nguoi ta hao huc...! Sang ngu day moi biet! LAM GI CO ONG GIA NOEL? HUHUHU :(((("
Làm vợ đần thối cả mặt khi mắt nhắm mắt mở đọc tin nhắn như vậy là rất không tốt với vợ. Nhưng chồng làm vợ muốn cười :)
+/ Tú thương Thủy lém... T không có ý định tha lỗi cho ông ấy. T nhận thấy rõ thái độ của mình với ông không phải là GHÉT. Mà chính là KHÔNG QUAN TÂM.
Sáng, nghe giọng Th qua mobi biết là Th khóc. Thương mà cũng chẳng làm được gì. Vì vẫn luôn giữ ý kiến "không xâm phạm đời sống riêng". Th biết tính T mà, đúng hem?
TB: cái pic này... cách đây hơn 6 tháng. Cho Th xem lần đầu. Hì, đừng vì nhớ Tú mà khóc nhè nhá hehehe :))
17.12.09
+/ Thứ nhất là VN về nhì rồi :(((((
+/ Thứ hai là việc đi bán sách bị hoãn :((((
+/ Thứ ba là có sự nhầm lẫn tai hại. Nhầm ngày tháng. Lỡ quên đi thi :(((
+/ Thứ tư là đi Sapa hay ở nhà chơi với bạn? :(
+/ Thứ năm là tốp thợ hoàn thiện công trình lần này chán kinh! :((
+/ Thứ sáu là người đồng hành đã say goodbye. Từ nay cháu phải bon bon 1 mình tới trường :((((
+/ Thứ bảy là tại sao lúc nào cũng có thể ngáp ngắn + dài. Đầu óc thì lẩm cẩm như bà bô già U70???
+/ Thứ tám là mẹ sớm sớm cho con cái mobi của mẹ đi. Không thì sẽ có cái title : Hóa đơn điện thoại đè chết 1 cô gái :(
+/ Thứ chín là cái công ty cố phần xây dựng ấy là công ty ma nửa mùa. Chết nỗi nó lại trúng thầu mới akay con chim cú vọ, Mr Hưng bẩn ah :))))))). Riêng việc đi mò mò tìm tìm cũng làm tớ đủ ngất đấy chú Hưng!
+/ Thứ mười là tớ kóc biết :)
+/ Thứ hai là việc đi bán sách bị hoãn :((((
+/ Thứ ba là có sự nhầm lẫn tai hại. Nhầm ngày tháng. Lỡ quên đi thi :(((
+/ Thứ tư là đi Sapa hay ở nhà chơi với bạn? :(
+/ Thứ năm là tốp thợ hoàn thiện công trình lần này chán kinh! :((
+/ Thứ sáu là người đồng hành đã say goodbye. Từ nay cháu phải bon bon 1 mình tới trường :((((
+/ Thứ bảy là tại sao lúc nào cũng có thể ngáp ngắn + dài. Đầu óc thì lẩm cẩm như bà bô già U70???
+/ Thứ tám là mẹ sớm sớm cho con cái mobi của mẹ đi. Không thì sẽ có cái title : Hóa đơn điện thoại đè chết 1 cô gái :(
+/ Thứ chín là cái công ty cố phần xây dựng ấy là công ty ma nửa mùa. Chết nỗi nó lại trúng thầu mới akay con chim cú vọ, Mr Hưng bẩn ah :))))))). Riêng việc đi mò mò tìm tìm cũng làm tớ đủ ngất đấy chú Hưng!
+/ Thứ mười là tớ kóc biết :)
15.12.09
- Nhiệt đới buồn
- Lời hứa lúc bình minh
- Nhật ký tuổi dậy thì
- Totem sói
- Titeuf-sao lại là tao?
+/ Hôm qua xếp lại giá sách. Tớ tìm thấy CD cậu làm tặng tớ. Dù sao, giờ cậu cũng là em rể tớ rồi nhá! Gọi tớ là em xưng anh mà không thấy shy sao? :))
+/ Còn tìm thấy mấy quyển vở hồi Nghĩa làm gia sư không lương cho bạn. Đứa nào hồi ấy vẽ ra kế hoạch Bách Khoa & Y. Cuối cùng thì 1 đứa đi nửa đường và bỏ. 1 đứa thì đi mãi mà không chịu đi cho xong. Sao buồn thế chứ? Nghĩa khác xưa thật rồi, Nghĩa ạ.
Tự dưng nhớ bạn nhiều. Muốn gọi cho bạn mà cái mobi bị hư. Tớ sẽ cố sửa cái tật ném mobi để trút giận. Hì
+/ Thủy đi lấy chồng. Tú buồn lắm! Thật đấy. Ngày Th ở nhà, 2 chị em mình chạy lên chạy xuống là đã tới 1h đêm. Giờ, Th về bên ấy rồi. T nặn ra việc mà mãi mới tới giờ có film để 2 đứa cùng buôn.
+/ Tóm lại là Nội đừng thúc cháu lấy chồng. Mẹ cũng đừng đuổi con suốt vậy. Con buồn à nha :)
+/ Muốn quên. Rồi mọi thứ vẫn luôn ở đây... Không dám nói to miss.
+/ Tớ sẽ trích quỹ ngày nghỉ ôn thi eo hẹp để nghỉ ngơi, vận động nhẹ bằng việc hò hét thợ hoàn thiện công trình và tất nhiên, thi thoảng buôn bán tin nhắn càm ràm với cậu nha cưng. kekeke
4.12.09
+/ Suốt nhiều năm ta cứ khắc khoải bởi nỗi lo tiền bạc. Lúc nào cũng TIỀN TIỀN TIỀN. Đến thời điểm này, nỗi lo cũng không nằm ngoài tiền. Nhưng hình như sự ì lớn mạnh. Kệ!
+/ Hồi hôm có dùng thuốc ngủ mặc dù chỉ qua 0h có chút xíu. Chẳng ai thích thú gì dùng thuốc. Chỉ là không ngủ, nhưng cứ nhắm mắt lại là thấy hình ảnh mình rơi từ trên cao xuống dưới biển và đá ngầm. Tất nhiên là vừa rơi vừa nhìn 1 cái tôi khác phía trên vực và cười. Thế nên mới đi mò mẫm thuốc ngủ.
+/ Vì cái cười của 2 tôi mà quyết tâm làm những gì mình thấy vui.
Xong chuyện cưới hỏi của em Bư, sẽ đi bán sách. Trên Đinh Lễ chẳng hạn :). Đang thích vậy mà.
+/ Hôm qua cưỡi Cup lượn lòng vòng Bát Tràng. Thu nhặt toàn chậu cây. Có lẽ chiều đi xong mấy việc với Bư thì sẽ lại trồng cây. Thích vậy!
+/ Vừa ở trường về. Cả kỳ chẳng nghỉ buổi nào môn của thầy. Học tương đối nghiêm túc ( thì mọi thứ chỉ là tương đối ). Nghỉ có 1 buổi đi việc riêng, có phép đấy... humm, thế mà hắn táng cho mình tới 2 điểm 0 "riêng em, tôi cho điểm. Người khác chỉ bị nhắc nhở, riêng em cho 2 con 0 vì ai bảo không gọi điện nói cho tôi biết vì sao nghỉ, nghỉ mà không báo tôi trước".
Buổi nào cũng Tú Tú Tú. Nghĩ đến môn của thầy mà kinh hoàng. Như thể cả giảng đường hơn 100 con người, chỉ có mỗi em đi học :((
Tú nhận xét
Tú lên bảng
Tú cho biết ý kiến
Tú đứng dậy, tại sao em cười với tôi?
...
Ngất xỉu!
+/ Hồi hôm có dùng thuốc ngủ mặc dù chỉ qua 0h có chút xíu. Chẳng ai thích thú gì dùng thuốc. Chỉ là không ngủ, nhưng cứ nhắm mắt lại là thấy hình ảnh mình rơi từ trên cao xuống dưới biển và đá ngầm. Tất nhiên là vừa rơi vừa nhìn 1 cái tôi khác phía trên vực và cười. Thế nên mới đi mò mẫm thuốc ngủ.
+/ Vì cái cười của 2 tôi mà quyết tâm làm những gì mình thấy vui.
Xong chuyện cưới hỏi của em Bư, sẽ đi bán sách. Trên Đinh Lễ chẳng hạn :). Đang thích vậy mà.
+/ Hôm qua cưỡi Cup lượn lòng vòng Bát Tràng. Thu nhặt toàn chậu cây. Có lẽ chiều đi xong mấy việc với Bư thì sẽ lại trồng cây. Thích vậy!
+/ Vừa ở trường về. Cả kỳ chẳng nghỉ buổi nào môn của thầy. Học tương đối nghiêm túc ( thì mọi thứ chỉ là tương đối ). Nghỉ có 1 buổi đi việc riêng, có phép đấy... humm, thế mà hắn táng cho mình tới 2 điểm 0 "riêng em, tôi cho điểm. Người khác chỉ bị nhắc nhở, riêng em cho 2 con 0 vì ai bảo không gọi điện nói cho tôi biết vì sao nghỉ, nghỉ mà không báo tôi trước".
Buổi nào cũng Tú Tú Tú. Nghĩ đến môn của thầy mà kinh hoàng. Như thể cả giảng đường hơn 100 con người, chỉ có mỗi em đi học :((
Tú nhận xét
Tú lên bảng
Tú cho biết ý kiến
Tú đứng dậy, tại sao em cười với tôi?
...
Ngất xỉu!
19.11.09
Làm đầy sự trống rỗng bằng chẩn đoán HC tăng thông khí.
Đi vào giấc ngủ bằng Dogmatil 50mg
Mỉm cười với chỉ số K+ 2.79 & Ca++ 1.00
Và phát ngán với lời gợi ý tái khám thần kinh
:)))))))))))
về đâu?
mùa thu đã qua. Tất cả rơi rụng dần. Dần. Dần. Và hết sạch.
Những cái ôm, nắm tay, an ủi, động viên ... làm ta thấy khá hơn. Có khi nào chỉ là đánh lừa cảm giác?
Năm nay rất có duyên với đơn vị cũ, Viện Bạch Mai.
Đi vào giấc ngủ bằng Dogmatil 50mg
Mỉm cười với chỉ số K+ 2.79 & Ca++ 1.00
Và phát ngán với lời gợi ý tái khám thần kinh
:)))))))))))
về đâu?
mùa thu đã qua. Tất cả rơi rụng dần. Dần. Dần. Và hết sạch.
Những cái ôm, nắm tay, an ủi, động viên ... làm ta thấy khá hơn. Có khi nào chỉ là đánh lừa cảm giác?
Năm nay rất có duyên với đơn vị cũ, Viện Bạch Mai.
4.11.09
29.10.09
Sáng nay bị ngã xe. Trong lúc ngã thì tưởng rằng một cái xe trời ơi đất hỡi nào đấy quàng vào xe mình. Nhưng khi được người đi đường đỡ dậy, hỏi han thì mới hay là mình tự ngã, một mình một đường mà thôi. Trên đường chỉ toàn vết phanh của mỗi mình mình.
Là mình bị bắt "phải tự ngã".
Lúc ấy đang mải nghĩ xem, lát nữa sẽ gọi cho người ta khất nợ kiểu gì. Đến lúc này danh dự chỉ còn là zero khi hết lần này tới lần khác xin lỗi, xin lỗi và xin lỗi.
Khoản nợ gần 1 tỷ tự nhiên rơi trúng đầu. Loay hoay. Thực sự là không thấy chút ánh sáng nào hết.
Ở tuổi 23, công việc không ổn định, vẫn loay hoay cắm cúi trường lớp. Đang ở độ xuân thì mà cảm giác như mùa thu của cuộc đời. Mọi thứ rơi rụng dần. Sức khỏe. Niềm tin. Giờ, không biết danh dự đã chào mình đi nốt hay chưa?
Bố đang nghĩ gì?
Là mình bị bắt "phải tự ngã".
Lúc ấy đang mải nghĩ xem, lát nữa sẽ gọi cho người ta khất nợ kiểu gì. Đến lúc này danh dự chỉ còn là zero khi hết lần này tới lần khác xin lỗi, xin lỗi và xin lỗi.
Khoản nợ gần 1 tỷ tự nhiên rơi trúng đầu. Loay hoay. Thực sự là không thấy chút ánh sáng nào hết.
Ở tuổi 23, công việc không ổn định, vẫn loay hoay cắm cúi trường lớp. Đang ở độ xuân thì mà cảm giác như mùa thu của cuộc đời. Mọi thứ rơi rụng dần. Sức khỏe. Niềm tin. Giờ, không biết danh dự đã chào mình đi nốt hay chưa?
Bố đang nghĩ gì?
27.10.09
- Cánh đồng lúa mạch ấy được nhuộm vàng trong nắng. Hai chiếc mũ rơm di chuyển trong tiếng chơi đùa của hai đứa bé. Một tóc vàng nhạt, một tóc đen bay nhẹ nhẹ dưới mũ rơm. Đúng, hai đứa trẻ. Chỉ có hai đứa trong cánh đồng lúa mạch ấy. Quên ngày tháng và mọi sự.
- Ở một nơi có các mỏm đá. Không biết tại sao lại có cả suối hiền hòa chảy quanh nơi mà nhìn rõ là có gờ đá đánh dấu một vực thẳm không xa. Cậu bé dang hai tay chạy đón cơn gió ngược. Gió làm mái tóc vàng nhạt bay. Gió làm chiếc áo kẻ caro ngoài của cậu bay. Và gió làm cậu nhoẻn miệng cười thích thú.
Tự do!
- Những giấc mơ trở đi trở lại... Có lẽ không thực, không phải vàng nhạt. Màu hạt dẻ sáng.
- Một câu "Anh yêu em" khiến con người ta sợ yêu như sợ cái chết. Sợ cái bó hẹp của khả năng trong việc cho phép mình được có trách nhiệm với một ai đó. Sợ phải chấp nhận một khả năng, khi thuần phục hay cho phép ai đó thuần phục mình cũng đồng nghĩa với việc phải tiêu hao phần nhiều suy nghĩ và tình cảm của mình cho họ...
Quanh co tìm chiếc chìa khóa cho một cánh cửa vẫn luôn mở ngay từ khi tồn tại - Nghi ngại. Tự ti. Mãi rồi... "Anh thích em".
- Đến rồi đi nhưng có về không...
- Ở một nơi có các mỏm đá. Không biết tại sao lại có cả suối hiền hòa chảy quanh nơi mà nhìn rõ là có gờ đá đánh dấu một vực thẳm không xa. Cậu bé dang hai tay chạy đón cơn gió ngược. Gió làm mái tóc vàng nhạt bay. Gió làm chiếc áo kẻ caro ngoài của cậu bay. Và gió làm cậu nhoẻn miệng cười thích thú.
Tự do!
- Những giấc mơ trở đi trở lại... Có lẽ không thực, không phải vàng nhạt. Màu hạt dẻ sáng.
- Một câu "Anh yêu em" khiến con người ta sợ yêu như sợ cái chết. Sợ cái bó hẹp của khả năng trong việc cho phép mình được có trách nhiệm với một ai đó. Sợ phải chấp nhận một khả năng, khi thuần phục hay cho phép ai đó thuần phục mình cũng đồng nghĩa với việc phải tiêu hao phần nhiều suy nghĩ và tình cảm của mình cho họ...
Quanh co tìm chiếc chìa khóa cho một cánh cửa vẫn luôn mở ngay từ khi tồn tại - Nghi ngại. Tự ti. Mãi rồi... "Anh thích em".
- Đến rồi đi nhưng có về không...
25.10.09
14.10.09
7.10.09
4.10.09
Trung thu năm trước, thân yêu mong mình ngoan như nít ranh lúc ngủ.
Năm nay thì...
Hồi tối qua ấy, cái quán bia đỏ, bia đen kia bỗng dưng mấy em xinh tươi phục trang chị Hằng, rồi mấy chàng cowboys, rồi thì múa lân cứ gọi là cái sàn gỗ dập huỳnh huỵch...Ôi chao là bực. Mà mọi bữa nó đâu có vậy!
Tăng 2. Cháu nó bị dẫn vào quán cafe cơ đấy. Nhưng mà nó phải tra tấn hơn cả vũ trường. Trẻ con bây giờ hư sớm thật! Mình thì chỉ mong được làm trẻ con lâu nhất có thể thôi.
Buồn nhân cấp số n.
Tóm lại là cũng đã hết một ngày!
Năm nay thì...
Hồi tối qua ấy, cái quán bia đỏ, bia đen kia bỗng dưng mấy em xinh tươi phục trang chị Hằng, rồi mấy chàng cowboys, rồi thì múa lân cứ gọi là cái sàn gỗ dập huỳnh huỵch...Ôi chao là bực. Mà mọi bữa nó đâu có vậy!
Tăng 2. Cháu nó bị dẫn vào quán cafe cơ đấy. Nhưng mà nó phải tra tấn hơn cả vũ trường. Trẻ con bây giờ hư sớm thật! Mình thì chỉ mong được làm trẻ con lâu nhất có thể thôi.
Buồn nhân cấp số n.
Tóm lại là cũng đã hết một ngày!
30.9.09
NGHĨ MÃI RỒI...
+/ Tôi có một cái lịch đi Thái vào giữa tháng 10 và cuối cùng là nó vỡ. Tức là lúc này chỉ mong bình yên mà chẳng phải nghĩ cái quái gì.
+/ Tôi có một mối quan hệ mà tóm lại, nếu tôi có kết hôn với anh ta thì may ra tôi nhớ được nhiều hơn cái tên của anh ta. Vậy đấy!
+/ Tôi có một người đàn ông đi theo sát tôi suốt cả một quãng đường dài dài. Từ lúc còn là bé con tới tận bây giờ. Và tóm lại là lúc này mới biết chắc chắn là người ta yêu mình, thay vì suốt cả thời gian yêu anh - tôi lờ mờ phỏng đoán anh cũng có tình cảm với tôi.
+/ Tôi có một cánh cửa mà ngay từ đầu tôi biết tôi không thể bước qua.
Nghĩ mãi rồi đẩy cửa.
Vậy mà, em vẫn ở đây :(
1 đứa trẻ côi cút trong khu vườn ấy, cánh đồng ấy...
Anh thật tệ!
+/ Thi thoảng, đọc lại cái này của anh. Nay cũng vậy
The leaves drop down
so sudden here.
No one tells you fall comes
like a pony rider posting
hard,
one moment green,
then yellow fire on mountains.
+/ Mùa thu...
+/ Tôi có một mối quan hệ mà tóm lại, nếu tôi có kết hôn với anh ta thì may ra tôi nhớ được nhiều hơn cái tên của anh ta. Vậy đấy!
+/ Tôi có một người đàn ông đi theo sát tôi suốt cả một quãng đường dài dài. Từ lúc còn là bé con tới tận bây giờ. Và tóm lại là lúc này mới biết chắc chắn là người ta yêu mình, thay vì suốt cả thời gian yêu anh - tôi lờ mờ phỏng đoán anh cũng có tình cảm với tôi.
+/ Tôi có một cánh cửa mà ngay từ đầu tôi biết tôi không thể bước qua.
Nghĩ mãi rồi đẩy cửa.
Vậy mà, em vẫn ở đây :(
1 đứa trẻ côi cút trong khu vườn ấy, cánh đồng ấy...
Anh thật tệ!
+/ Thi thoảng, đọc lại cái này của anh. Nay cũng vậy
The leaves drop down
so sudden here.
No one tells you fall comes
like a pony rider posting
hard,
one moment green,
then yellow fire on mountains.
+/ Mùa thu...
8.9.09
+/ Anh đi công tác xa Hà Nội hơn 2 tháng. Qùa cho em là thuốc dạ dày của người dân vùng cao.
Cho anh nắm tay 1 cái để anh còn về. Và anh nắm. Kéo nhẹ em vào để ôm. "Anh nhớ Hà Nội quá!"
Có những tình cảm thật sự tốt đẹp. Nó đã qua. Đôi khi nghĩ lại, là cả quãng thời gian dài dài. Bỗng thấy mình già. Gần 10 năm rồi.
Một cái ôm chân thành trong xa lạ. Cũng không thể biết là cái ôm của 2 kẻ yêu nhau ( đã từng yêu ), của anh trai với em gái... Không ai cần hiểu.
+/ Đêm qua bị lôi kéo bởi "Nỗi cô đơn của các số nguyên tố". Lúc ấy nhìn đồng hồ cũng gần sang ngày mới rồi. Nhưng vẫn cố tình đọc. Đến 2h sáng là có ý đọc xuyên. Cảm giác nằm đọc xuyên kiểu này biến mất bởi cái năm ôn thi Đại học. Bị lôi kéo, rồi vẫn cứ bò về giường vì biết mai còn cả đống thứ phải làm.
+/ Hồi sáng ngồi phòng máy muốn type gì đó về cuốn ấy nhưng mạng của trường siêu rùa. Thế là thôi. Giờ, bốc hơi hết rồi.
+/ 2 lần gần nhất thức thâu đêm: lần đầu tiên gặp thân yêu và lần đầu tiên yêu anh.
Vâng. 1 buổi chiều ngớ ngẩn để làm những hành động ngớ ngẩn và kết cục là con bé ngớ ngẩn ngày ngày đợi anh. Khó chịu hơn bất cứ cực hình nào :((
Vâng. Nhớ nhiều. Nhiều hơn sự tưởng tượng của cả anh và em cộng lại đấy!
Đừng đi nữa.
Cho anh nắm tay 1 cái để anh còn về. Và anh nắm. Kéo nhẹ em vào để ôm. "Anh nhớ Hà Nội quá!"
Có những tình cảm thật sự tốt đẹp. Nó đã qua. Đôi khi nghĩ lại, là cả quãng thời gian dài dài. Bỗng thấy mình già. Gần 10 năm rồi.
Một cái ôm chân thành trong xa lạ. Cũng không thể biết là cái ôm của 2 kẻ yêu nhau ( đã từng yêu ), của anh trai với em gái... Không ai cần hiểu.
+/ Đêm qua bị lôi kéo bởi "Nỗi cô đơn của các số nguyên tố". Lúc ấy nhìn đồng hồ cũng gần sang ngày mới rồi. Nhưng vẫn cố tình đọc. Đến 2h sáng là có ý đọc xuyên. Cảm giác nằm đọc xuyên kiểu này biến mất bởi cái năm ôn thi Đại học. Bị lôi kéo, rồi vẫn cứ bò về giường vì biết mai còn cả đống thứ phải làm.
+/ Hồi sáng ngồi phòng máy muốn type gì đó về cuốn ấy nhưng mạng của trường siêu rùa. Thế là thôi. Giờ, bốc hơi hết rồi.
+/ 2 lần gần nhất thức thâu đêm: lần đầu tiên gặp thân yêu và lần đầu tiên yêu anh.
Vâng. 1 buổi chiều ngớ ngẩn để làm những hành động ngớ ngẩn và kết cục là con bé ngớ ngẩn ngày ngày đợi anh. Khó chịu hơn bất cứ cực hình nào :((
Vâng. Nhớ nhiều. Nhiều hơn sự tưởng tượng của cả anh và em cộng lại đấy!
Đừng đi nữa.
6.9.09
TUẦN LỄ MẤT TRÍ NHỚ
+/ Mở màn tuần lễ này là bộ mặt đơ như quả bơ trong giờ Bảo hiểm. Kết quả: 1 cafe, 1 trà đá tràn vào tất cả tài liệu có trên bàn. Tất cả đứng dậy thu xếp ra về trong khi cháu cứ ngỡ là mình vẫn ở thời khắc 10h sáng. Ngơ!
+/ Thứ 3 cháu ngồi trong phòng máy. Khi cháu hỏi cu Mạnh, "hôm nay ngày mấy cưng nhỉ?" - " Chị hỏi em câu này là lần thứ 4 từ lúc em gặp chị tại cửa phòng". Nản!
+/ Ngày 2/9 cháu ở nhà đánh vật với công cuộc chuẩn bị. Nay nhà trai sang nói chuyện. Tất nhiên, cháu vẫn ở nhà chưa ai rước :)). Người ra nhập hàng ngũ đeo gông vào cổ là em Bư. Đầu năm sau nàng lên xe là phóng. Cả ngày cháu đần mặt vì 2 cái răng ngu, mọc mãi không xong.
+/ Ngày thứ 5, cháu đỗ đèn giao thông.
BIM BIM BIM - { Cái ngày chết tiệt gì thế nhỉ? - song vẫn ko quay đầu lại }
BIM BIM BIM - { Chết tiệt, đừng nói sáng nay ra ngõ gặp... gì nhé - mà đây cũng không quệt xe vào ô tô đâu mà BIM - ô tô chết tiệt, chết tiệt ô tô }
BIM BIM BIM - { Shittttttt - mặt quạu quay lại - "Đi tạt đầu xe anh nhé! Hôm nào alo là phải có mặt luôn đấy. Con gái mà đi xe như là... hí hí hí }
Đến cái đèn giao thông ở Lạc Trung thì hỡi ôi, bé đồng nghiệp cũ chào chị Tú cười toe toét, đi qua rồi mình quay lại hỏi bé Thu ngồi sau, "em này, hình như con bé trông quen quen vừa rồi nó chào anh đúng ko?" - "Vâng, em thấy nó chào "chị Tú" mà anh"
+/ Hôm nay, Tuby đang ở Vũng Tàu gọi ra. Nhóc con bảo lâu không thấy chị nên hỏi thăm. { Cũng vì cháu ngồi nhớ nhớ chuyện hồi lâu hồi lâu và nhớ ra cái con bé Hà Nội tên Tú này } . Thật ra là mình cũng không biết tại sao mình cười vậy. Cũng không biết tại sao lại hỏi thằng bé câu đầu tiên là "Em đang ở đâu?" { Chắc tại mặc định là bạn bè SG có gọi thì chắc là đã ra HN rồi }
+/ 1 tuần nay để chế độ mặc định cho bộ não điều khiển tay trái vồ lấy mobi : >=2 tin nhắn liên tiếp thì mới mở.
Vì em biết, người gửi chỉ có thể là anh!
Không còn đủ can đảm để hy vọng cho những lần mở tin nhắn đơn
Anh thật tệ! Đã hơn 1 tuần im lặng. Nghếch lo lắng đấy, ông già ốm yếu ạ :(
+/ Dịp này ôm kha khá sách. Đã không còn Nít ranh. Chuyển qua, văn học nước nhà. Hỡi ôi! đơ như quả bơ!
+/ Thứ 3 cháu ngồi trong phòng máy. Khi cháu hỏi cu Mạnh, "hôm nay ngày mấy cưng nhỉ?" - " Chị hỏi em câu này là lần thứ 4 từ lúc em gặp chị tại cửa phòng". Nản!
+/ Ngày 2/9 cháu ở nhà đánh vật với công cuộc chuẩn bị. Nay nhà trai sang nói chuyện. Tất nhiên, cháu vẫn ở nhà chưa ai rước :)). Người ra nhập hàng ngũ đeo gông vào cổ là em Bư. Đầu năm sau nàng lên xe là phóng. Cả ngày cháu đần mặt vì 2 cái răng ngu, mọc mãi không xong.
+/ Ngày thứ 5, cháu đỗ đèn giao thông.
BIM BIM BIM - { Cái ngày chết tiệt gì thế nhỉ? - song vẫn ko quay đầu lại }
BIM BIM BIM - { Chết tiệt, đừng nói sáng nay ra ngõ gặp... gì nhé - mà đây cũng không quệt xe vào ô tô đâu mà BIM - ô tô chết tiệt, chết tiệt ô tô }
BIM BIM BIM - { Shittttttt - mặt quạu quay lại - "Đi tạt đầu xe anh nhé! Hôm nào alo là phải có mặt luôn đấy. Con gái mà đi xe như là... hí hí hí }
Đến cái đèn giao thông ở Lạc Trung thì hỡi ôi, bé đồng nghiệp cũ chào chị Tú cười toe toét, đi qua rồi mình quay lại hỏi bé Thu ngồi sau, "em này, hình như con bé trông quen quen vừa rồi nó chào anh đúng ko?" - "Vâng, em thấy nó chào "chị Tú" mà anh"
+/ Hôm nay, Tuby đang ở Vũng Tàu gọi ra. Nhóc con bảo lâu không thấy chị nên hỏi thăm. { Cũng vì cháu ngồi nhớ nhớ chuyện hồi lâu hồi lâu và nhớ ra cái con bé Hà Nội tên Tú này } . Thật ra là mình cũng không biết tại sao mình cười vậy. Cũng không biết tại sao lại hỏi thằng bé câu đầu tiên là "Em đang ở đâu?" { Chắc tại mặc định là bạn bè SG có gọi thì chắc là đã ra HN rồi }
+/ 1 tuần nay để chế độ mặc định cho bộ não điều khiển tay trái vồ lấy mobi : >=2 tin nhắn liên tiếp thì mới mở.
Vì em biết, người gửi chỉ có thể là anh!
Không còn đủ can đảm để hy vọng cho những lần mở tin nhắn đơn
Anh thật tệ! Đã hơn 1 tuần im lặng. Nghếch lo lắng đấy, ông già ốm yếu ạ :(
+/ Dịp này ôm kha khá sách. Đã không còn Nít ranh. Chuyển qua, văn học nước nhà. Hỡi ôi! đơ như quả bơ!
15.8.09
7.8.09
+ Đến tận hôm nay mới biết bác Cao Nhị Linh :)) là dân 198x già cỗi :))
Oh, em rất thích những đầu sách bác chọn dịch. kekeke
Và tóm lại là em thích...
:))
+ Thôi thì... hãy chờ xem cuộc đời đến đâu ( thì đến ). Thôi thì... tùy.
Muốn đi thì số phận dẫn đi. Mà không muốn đi, thì nó cũng kéo lê mình đi.
Thế nên? Tùy!
+ hehehe, em xin lỗi bác nhé! ( vì sự nhầm nhọt ). Còn thì, em tưởng anh là cuối 7x cơ :)) ( là căn cứ vào chất lượng bản dịch ), còn hình ảnh ấy - có thể xem là 8x tầm trung :))
+ Xin được delete phần mở ngoặc nhầm nhọt :D
+ Khách ghé thăm : 2 Ngoại Thương có ở đây :). 1 Nam 1 Bắc - tình hình chẳng tương đồng. Hô hô hô.
Oh, em rất thích những đầu sách bác chọn dịch. kekeke
Và tóm lại là em thích...
:))
+ Thôi thì... hãy chờ xem cuộc đời đến đâu ( thì đến ). Thôi thì... tùy.
Muốn đi thì số phận dẫn đi. Mà không muốn đi, thì nó cũng kéo lê mình đi.
Thế nên? Tùy!
+ hehehe, em xin lỗi bác nhé! ( vì sự nhầm nhọt ). Còn thì, em tưởng anh là cuối 7x cơ :)) ( là căn cứ vào chất lượng bản dịch ), còn hình ảnh ấy - có thể xem là 8x tầm trung :))
+ Xin được delete phần mở ngoặc nhầm nhọt :D
+ Khách ghé thăm : 2 Ngoại Thương có ở đây :). 1 Nam 1 Bắc - tình hình chẳng tương đồng. Hô hô hô.
31.7.09
Năm 13 tuổi, cô bỗng dưng xuất hiện. Cô có màu mắt nâu nhạt, nhạt nhất cho tới lúc này mà tôi từng biết. Ngày ấy cô mang tặng Heidi ( cái cuốn mà do Đại sứ quán Thụy Sĩ tại VN phát hành ấy ). Thích mê tơi lên được. Mà không dám nói, hỏi, chỉ dám nghĩ nghĩ: Cô lớn vậy rồi mà còn đọc nít ranh Heidi?.
10 năm trôi qua, cái đứa tôi cũng 23 rồi. Bằng cô của ngày ấy. Hôm rồi, nhóc con Phúc hỏi rằng: "Chị ơi, sao chị lớn ơi là lớn mà chị còn thích Thuyền trưởng quần lót? Hay tại chị gọi con EMi là con, chị là mẹ của con mèo EMi, chị sinh ra mèo. Nên cái gì của chị cũng giống yêu tinh?"
My God!
Cô ngày ấy trong mắt đứa nhóc 13 tuổi lớn chậm hiện ra thật... thật xinh nhất nhất chưa từng thấy.
Còn tôi ngày hôm nay hiện ra trong mắt em là "yêu tinh" "chị Tú lúc nào cũng hồn nhiên"
( thật ra sau 2 tháng, ngày lại ngày dạy thằng bé học, mình mới hiểu cái từ hồn nhiên. Dạ thưa, ý cháu nó là thản nhiên, điềm nhiên "vì chị không cười, không nhăn mặt, chị chẳng ra gì ở mặt để em biết là chị có vui hay không" )
:))
PS: Không muốn thương một cái tủ lạnh... như anh!
21.7.09
+ Blog này bỏ hoang cũng lâu lâu. Thật ra thì chẳng bận bịu gì tới mức tối mắt tối mũi nhưng cứ mỗi bận muốn type gì đó. Thật sự muốn ấy. Thì khi ngồi trước màn hình lại muốn tắt máy. Thế mới biết con người này càng lúc càng mù lòa.
+ Nhắc tới mù lòa. Hôm rồi, Chồng ngố tặng 1 ôm hoa sen, 1 mít tố nữ. Loay hoay 1 hồi với suy nghĩ, cắm ở đâu ta? Cắm phòng riêng thì thấy tội lỗi, cắm phòng khách thì thấy không ra gì. Rốt cuộc là phòng riêng. Thì vốn mù lòa nên không thể nhận ra vị trí dành cho cái đẹp.
+ Mang nguyên cả 1/2 tiền lương đi mua sách, 1 ít đi mua bánh ngọt vào 1 ngày gọi đúng phải là "bão chạy qua". Về nhà, người ướt sạch, được cái sách không ướt 1 chút nào, cũng không cong đến cả mép bìa.
+ Chính lúc này đây lại thấy chán quá. Không muốn nhìn cái màn hình này nữa. Cứ nghĩ tới tình cảnh thân yêu đi gần 15 ngày chưa về mà thấy... bệ rạc! Vâng, em không buồn, cũng không khóc. Chỉ vậy thôi :(
There's only one thing two do three words four you.
I love you :*
26.6.09
NHỮNG KẺ CÔ ĐƠN KHÔNG SỐ ĐẾM
19.6.09
18.6.09
CŨ CŨ
Tôi thường không giữ được liên lạc với những bạn học khi kết thúc năm/ khóa học. Có chăng là thi thoảng 1 sự kiện, 1 ký ức nào đến và gợi lại. Nhìn chung, tình yêu con người đẹp đẽ như biển xanh, dâng trào 1 đợt sóng biển như hơi thở thật dài rồi cũng có khi tan, và xa bờ.
Dũng Mao là 1 thằng bạn cũng không đặc biệt gì với tôi. Nói đúng thì cả 2 đứa chẳng có gì hợp gu nhau cả. Thằng chửi bậy thạo hơn cả cách nói các từ dấu hỏi, ngã. Đánh nhau thạo hơn cả châm 1 điếu thuốc lá... thì không chấp làm gì. Nhưng nó chẳng dám nói nặng với tôi. Cái thằng kể cũng lạ.
Legal với tôi thì thân rồi. Nhưng, năm thăm nhau có được đến 10 đầu ngón tay. Mỗi đứa 1 việc, nhớ quái gì tới nhau. Có nhớ thì cũng in ít nhỉ? :) Thằng quỷ :))
Legal đang cao thêm lên ở cái tuổi 24. Kể cũng lạ. Giờ, cũng bớt chính tắc đi nhiều. Còn dáng vẻ ngay ngắn và tự tin thì vẫn như xưa. Được cái, hình như mình càng ngày càng đỡ ngu nên thằng bé chém gió mình đếch thèm nghe nữa. Thay vì thế thì hỏi lại :"Gió phương nào đến?"
Mai là một con bé ngỗ nghịch, lì đòn nhưng hay khóc nhè hơn cả mình. Mình chơi với nó, có đâu là được 2 năm lớp 4 và 5. Chơi ủn đầy ( nhảy bậc ), nó cao to, nhún 1 cái thì cả hội lác mắt. Nhưng nó cũng hay ngã. Mà hễ ngã là khóc. Mà hễ khóc thì chỉ có cách thơm chụt chụt vào má thì nó mới nín. Răng nó khểnh phải đến cả hàm...
Nghe đâu, cha mẹ ly dị khi vừa vào cấp 2, rồi nó về ở với Ngoại, rồi chuyển trường, rồi không thấy đâu...
Hôm kia nhìn thấy nó trước cửa nhà. Đang văng tục với người bán rau. Nó vẫn đanh đá như hôm nào. Nhưng giờ nhếch nhác vì lấy chồng sớm.
...
Ký ức là một rãnh sâu. Mạnh hơn cả 1 vết cắt nhanh!
Dũng Mao là 1 thằng bạn cũng không đặc biệt gì với tôi. Nói đúng thì cả 2 đứa chẳng có gì hợp gu nhau cả. Thằng chửi bậy thạo hơn cả cách nói các từ dấu hỏi, ngã. Đánh nhau thạo hơn cả châm 1 điếu thuốc lá... thì không chấp làm gì. Nhưng nó chẳng dám nói nặng với tôi. Cái thằng kể cũng lạ.
Legal với tôi thì thân rồi. Nhưng, năm thăm nhau có được đến 10 đầu ngón tay. Mỗi đứa 1 việc, nhớ quái gì tới nhau. Có nhớ thì cũng in ít nhỉ? :) Thằng quỷ :))
Legal đang cao thêm lên ở cái tuổi 24. Kể cũng lạ. Giờ, cũng bớt chính tắc đi nhiều. Còn dáng vẻ ngay ngắn và tự tin thì vẫn như xưa. Được cái, hình như mình càng ngày càng đỡ ngu nên thằng bé chém gió mình đếch thèm nghe nữa. Thay vì thế thì hỏi lại :"Gió phương nào đến?"
Mai là một con bé ngỗ nghịch, lì đòn nhưng hay khóc nhè hơn cả mình. Mình chơi với nó, có đâu là được 2 năm lớp 4 và 5. Chơi ủn đầy ( nhảy bậc ), nó cao to, nhún 1 cái thì cả hội lác mắt. Nhưng nó cũng hay ngã. Mà hễ ngã là khóc. Mà hễ khóc thì chỉ có cách thơm chụt chụt vào má thì nó mới nín. Răng nó khểnh phải đến cả hàm...
Nghe đâu, cha mẹ ly dị khi vừa vào cấp 2, rồi nó về ở với Ngoại, rồi chuyển trường, rồi không thấy đâu...
Hôm kia nhìn thấy nó trước cửa nhà. Đang văng tục với người bán rau. Nó vẫn đanh đá như hôm nào. Nhưng giờ nhếch nhác vì lấy chồng sớm.
...
Ký ức là một rãnh sâu. Mạnh hơn cả 1 vết cắt nhanh!
12.6.09
KẾT THÚC ĐỂ BẮT ĐẦU
Hic, cuối cùng ở 360 đấy ạ! :((
The Painted Veil ( 2006 )
Dựa theo tiểu thuyết của nhà văn W. Somerset Maugham
Cái này phải cảm ơn vợ chồng siêu nhân đã chuyển hộ khẩu cho em nó vào PC. Vì cũng hơi ngại ngại do thấy phần lớn trong đấy là xem rồi nên cũng ko bắng nhắng, ngó nguấy tí nào. Hôm nay, nhân 1 ngày tóc tai cắt ngắn quá, xấu quá thì nằm xem thay vì học thi Tiền tệ - Tài chính.
Nói thế nào nhỉ? Hum, rằng bộ phim là hành trình đi tìm tình yêu trong hôn nhân của đôi vợ chồng trẻ người Anh. Thì Nàng là một tiểu thư khá sôi nổi và hơi rảnh rang quá, có abc với 1 người đàn ông khác, không phải chồng mình ngay trong phòng của 2 vợ chồng. Và Chàng là một nhà vi khuẩn học, đứng ngoài cánh cửa, cảm nhận hơi thở của 2 con người bên trong.
Chuyến đi đến ngôi làng đang bị dịch tả tấn công. Nó như hành trình tìm kiếm tình yêu, sự tha thứ của Nàng nơi chồng. Và là hành trình tìm lại tình yêu ( 1 lần nữa ), sự cảm thông của Chàng nơi vợ.
Không thể hình dung một diễn xuất nào hơn của Edward Norton trong vai Dr Fane. Khác xa và bật tưng cả lò xo so với The Italian Job.
Một Naomi Watts quen thuộc, biến mất. Mrs Fane khá kiêu kì đấy!
-Do you absolutely despise me?
-No. I despise myself.
-Why?
-For allowing myself to love you once.
Ps: Quái vật bé tí ghê gớm, đầu óc kỳ quặc chính thức khóa sổ blog 360.
Điểm chỉ
CHOẸT CHOẸT
@@
4.6.09
CHỌN THỞ HAY KHÔNG THỞ
Tác giả: Phạm Thị Điệp Giang
Hồi lâu lâu, có cô bạn kể xem một bộ phim mang tên Hơi thở (Breath) của Kim Ki-duk. Cô bảo xem chẳng hiểu gì. Nội dung chỉ như thế này: Một cô điêu khắc suốt ngày ở nhà làm việc, một ngày nọ thấy trên tivi đưa tin có một anh chàng trong nhà tù cố gắng tự sát lần thứ hai. Mấy ngày liền, bản tin đó được đưa đi đưa lại, người ta không hiểu nguyên nhân vì sao anh ta cố tình kết thúc cuộc sống của mình. Người chồng cô này thấy vợ chỉ coi mấy loại tin thời sự đó, khuôn mặt ủ dột thì nói cô ra ngoài tiếp xúc gặp gỡ ai đó. Tình cờ một ngày, cô phát hiện chiếc cặp tóc phụ nữ trên xe hơi của chồng.
Trong một lúc chán nản sau khi cãi nhau với chồng, cô bắt taxi chạy suốt đêm tới nhà tù nơi người đàn ông trong bản tin bị giam. Cô đợi tới sáng, nói dối là bạn gái cũ của người tù, sau khi đã không được chấp nhận một lần, bảo vệ lại cho phép cô vào thăm.
Người tù ngạc nhiên khi có người tới thăm. Vì dùng cán bàn chải đánh răng đâm vào họng tự sát, nên anh này không có khả năng nói. Khi báo tin có khách tới thăm, một nam tù nhân cùng phòng, vốn yêu anh này, nhìn theo người tù đầy nghi hoặc. Tâm trạng của người tù cũng chẳng khác gì. Anh bước tới phòng gặp với người phụ nữ xưng là bạn gái cũ, lắng nghe cô kể về cảm giác đã từng chết trong năm phút vào lúc 9 tuổi. Rồi anh ra hiệu cô ghé tới gần tấm nhựa ngăn cách có những lỗ thủng nhỏ và giật một sợi tóc của cô.
Khi trở về, người phụ nữ đột nhiên trở nên có cảm giác vui vẻ trở lại. Rồi cô quay lại thăm người tù, mỗi một lần mang tới những tờ tranh trang hoàng phòng gặp, với chiếc đài phát bản nhạc và mặc những bộ đồ từng mùa: Xuân, Hạ, Thu. Cùng những lần thăm ấy, tình cảm giữa hai người tiến triển, từ mở miệng cùng nhau cười, tới chớm môi, rồi hôn sâu. Sau mỗi lần, người đàn bà trao cho người đàn ông một tấm hình, lúc là cô con gái nhỏ của người đàn bà đang cười tươi giữa hoa chindale, khi là hình người đàn bà ở biển, và lần hôn sâu cuống quýt không thể rời, là hình người đàn bà nghiêng người khỏa thân. Từ đó người tù ngày đêm mơ tưởng tới người đàn bà, khiến cho người yêu đồng tính cùng phòng của anh ghen tuông, căm giận, nhượng bộ rồi hận thù.
Rồi người chồng phát hiện ra, anh chấm dứt quan hệ ngoại tình của mình và mong muốn người vợ quay lại. Nhưng người vợ cố tình vẫn tới nhà tù. Cho tới ngày anh tới tù đưa vợ về, trên đường xảy ra một tai nạn.
Người vợ, trước sức ép của chồng và vì thương con, nén lại không tìm tới nhà tù nữa. Còn người tù, anh được người chồng cho biết cô ấy sẽ không bao giờ quay lại.
Nhưng rồi, khi vết thương của vụ tai nạn đã bị xóa đi, khi tivi lại phát tin tù nhân nọ thêm một lần cố tình tự sát bằng cán bàn chải, người vợ quyết định tới thăm người tù một lần nữa. Lần này, người chồng và đứa con nhỏ đang ngủ cùng đi. Cô đến và chẳng có gì cả, không tranh, không cát sét, chỉ có bộ váy ngủ màu đen nằm sau chiếc áo khoác. Cô và người tù làm tình với nhau, trước chiếc camera giám sát của trại giam. Khi lên tới đỉnh, cô dùng hết sức mình bịt mũi, hôn và cố gắng cắn chiếc lưỡi của người tù. Anh ta giãy dụa, và người giám ngục phải tìm mọi cách mới lôi được họ ra, đầm đìa máu.
Kết thúc phim, người đàn bà trở ra ngoài cổng trại, nơi tuyết đang rơi. Đứa con nhỏ và chồng đang ném tuyết, cô cùng tham gia trò chơi với họ. Trên đường về, vợ và chồng cùng hòa giọng hát ca khúc “Tuyết rơi” (Tombe la neige). Còn người tù, hắn quay trở lại gian phòng với 3 tù nhân khi trước. Trong đêm, hắn lại co quắp trong vòng tay người tình đồng tính. Như thể chưa có chuyện gì xảy ra.
Kim Ki-duk quen thuộc với nhiều khán giả Việt Nam qua bộ phim “Xuân, Hạ, Thu, Đông rồi Xuân”. Sau này, ở VN dễ dàng tìm được bộ đĩa 7-8 film của ông. Phim Kim Ki-duk thường đẩy nhân vật tới tận cùng nỗi đau, thông qua tình dục để bày tỏ nỗi đau, biểu lộ nó, giải thích nó và hóa giải nó. Không chỉ mang trong nó những giáo lý Khổng tử của nền văn hóa Hàn, nó còn thấm đẫm tinh thần Phật giáo với ý niệm về sự luân hồi, vay trả, về nghiệp và trả nghiệp,…
Xem Breath, có lẽ nên phải dịch là Thở, chứ không phải Hơi thở như những đĩa phim bán bên ngoài có ghi. “Thở” ở đây là trạng thái của Sống, của Hưởng, của Hiện tại. Thở và Không Thở là hai mặt đối lập nhau như giữa Sinh và Tử. Khi con người biết cách Thở, họ biết cách thấu nhận và thụ hưởng những giá trị của cuộc sống. Khi họ không tôn trọng và từ chối Thở, họ từ chối cuộc sống, hoặc bị cuộc sống chối bỏ.
Nói về hình ảnh người đàn bà. Khi 9 tuổi, trong một lần ra hồ bơi, để tham gia một trò chơi, cô bịt mũi rồi lặn sâu xuống nước. Khi đó cô không thở. Rồi cô cảm thấy nước tràn vào mí mắt, và người phồng lên như một quả bóng. Khi nổi lên, bạn bè cô bảo cô đã chết trong vòng năm phút.
Trong năm phút đó, người đàn bà trải nghiệm cảm giác của cái chết. Đó là cái chết cô tạo ra nhưng vô thức. Khi ở cảm giác của cái chết, cô hiểu rằng cô không muốn điều đó. Cô quẫy đạp để mình được sống trở lại. Nhưng khi sống trở lại, cô chối bỏ hiện thực. Hiện thực cuộc sống là một người cha hay dùng cành hoa để đánh đau cô vì cô hay vẽ linh tinh vào tập vở. Nỗi đau ngày nhỏ ám ảnh tới nỗi cô ghét cay đắng loại hoa cha đã dùng cành để đánh mình. Ở Hàn Quốc, đó là một thứ hoa có màu vàng rực rỡ, nở vào mùa xuân, khắp núi đồi thành phố, với mùi hương ngọt ngào lan tỏa khắp không gian. Lẽ ra khi loài hoa ấy nở rộ, lòng người phải vui vì những ngày tuyết dài đã kết thúc. Nhưng ký ức của người đàn bà chỉ là nỗi đau.
Khi tìm đến người tù, người đàn bà muốn được sẻ chia nỗi đau ấy. Cô tìm thấy mối đồng cảm giữa việc người tù cố tình chối bỏ cuộc sống với cảm giác chối bỏ cuộc sống của chính mình. Vì lẽ ra sau khi sợ hãi vì lần chết hụt hồi 9 tuổi tới mức không dám bước chân tới hồ bơi, cô phải sống khỏe lên để xa rời cảm giác ấy. Nhưng cô lại luôn tìm lại nó. Thi thoảng cô cố tình tạo ra cảm giác đó để trầm mình vào. Vì cô không có được sự tươi vui của đứa con gái nhỏ, không cảm thấy sự quan tâm của người chồng, và những người bạn xung quanh cô chỉ là những bức tượng câm lặng, cô có thể tạo ra cũng có thể phá hủy.
Trong ba lần đến thăm người tù dưới việc mang tới cảm giác mùa Xuân, mùa Hạ và mùa Thu, ta gặp lại ẩn dụ về vòng tuần hoàn và vòng tròn thời gian kiểu Kim Ki-duk. Những giai đoạn vui tươi rộn rã của ngày mùa xuân và giọng hát của cô cùng hình ảnh hoa chindale hồng rực dán kín căn phòng chính là tượng trưng cho hình ảnh đứa con gái nhỏ. Một thực thể hiện hữu trong đời sống mà cô đang chối bỏ. Chỉ có thể tìm lại khi tới nhà tù. Hình ảnh của mùa hè với biển xanh cát trắng chính là tái tạo lại cô của ngày thơ ấu với cái chết dưới hồ bơi. Và mùa thu với lá đổi màu ở núi Seorak, chính là nơi gặp gỡ đầu tiên của cô và chồng, để rồi dẫn đến cuộc hôn nhân không như ý.
Tình cảm mà cô mang đến cho người tù, đó là thứ tình cảm ích kỷ, chứ không phải là tình cảm Cho Đi như người ta thoáng thấy. Mỗi một lần tìm đến và cho người tù một chút tình cảm, từ sự chia sẻ tới cái ôm rồi cái hôn, cô lại tìm thấy mình nhiều hơn, lại nhận ra những gì mình đang có rõ rệt hơn.
Đỉnh điểm của việc cho là hành vi làm tình với người tù trong lần đến cuối cùng, cũng là lần cô mang tới mùa Đông. Đó là lần-gặp-mùa-đông trong căn phòng, cũng là lúc mùa đông đang ở bên ngoài trại tù. Mùa đông ẩn dụ và mùa đông của thực tại lúc này nhập làm một. Khi làm tình với người tù, cô giải phóng tất cả những ẩn ức đã dồn nén, đồng thời cũng muốn triệt tiêu cảm giác đau thương mà cô đã cố tình nhấn chìm mình vào. Việc cố tình giết người tình tù nhân cũng giống như cô cố gắng để loại bỏ bóng ma ám ảnh của tuổi thơ, của sự-muốn-chết khi nhận ra cuộc sống của cô là ở bên ngoài kia, là thực tại đã bấy lâu cô chối bỏ, là sự sai lầm của người chồng và việc nhận ra sai lầm của anh, là đứa con nhỏ lẽ ra phải được nhí nhảnh như tuổi của nó nhưng cứ luôn u sầu vì sự buồn bã và lặng lẽ của cả cha lẫn mẹ,…
Để cho nhân vật người tù không có khả năng phát âm (do vết thương liên tục ở họng mỗi lần anh cố ý tự sát), Kim Ki-duk đã nỗ lực thể hiện các cung bậc của Thở qua Hơi thở và động tác Thở ở nhiều tình huống và chi tiết của film.
Lần đầu cảm động vì câu chuyện của người đến thăm, tù nhân khi hết giờ thăm đã phả luồng hơi và đặt lên mặt vách ngăn trong phòng gặp một nụ hôn. Trong đêm tối, những âu yếm của anh và người tình đồng giới cũng thể hiện qua tiếng thở. Khi cùng người đàn bà, tiếng thở đó lại được làm sâu hơn nữa ở nhiều cung bậc: thở ức nghẹn (nguyên nhân phạm tội của anh không rõ ràng, chỉ biết anh ở cùng phòng với vợ và con gái bị sát hại và họ nghi anh là thủ phạm), thở giao hòa (với cuộc sống), thở khao khát (khi làm tình với người phụ nữ - đối tượng anh thèm muốn, chứ không phải người tình đồng giới kia (vì gò ép và thiếu thốn, chứ không vì bản năng tự nhiên), thở đuối sức kiệt quệ (khi bị người đàn bà cố tình cắn lưỡi), thở lấy lại hơi thở của cuộc sống (sau khi người đàn bà rời ra). Chính hơi thở này chứng tỏ anh ta vẫn yêu cuộc sống này. Lẽ ra, nếu như anh ta đã từng cố tình tự sát 3 lần mà không thành, anh ta phải mau chóng đón nhận cái chết đến trong lần này, nhưng anh ta lại vùng vẫy để thoát ra khỏi nó. Bởi tự đáy lòng anh ta, anh ta vẫn muốn sống. Bởi chỉ trong khi sắp chết, người ta mới ý thức được mình thèm sống và cần sống tới mức nào. Bởi chỉ trong giây phút mong manh nhất của sự Sống và cái Chết, người ta mới thấu nhận trọn vẹn nhất cảm giác Sống và Hiện tại này. Bởi vì, mỗi người gánh một cái Nghiệp. Cái Nghiệp này phải tự gánh, không ai gánh nổi hộ ai, không ai trả nổi hộ ai. Hành vi cố ý tự sát kia, cũng giống như cô gái, chỉ là cách để anh ta cố gắng giải thoát một nỗi ẩn ức nào đó, chứ không phải để kết thúc cuộc đời mình. Và nỗi ẩn ức đó là gì, vẫn còn là bí mật!
Bộ phim còn nhiều ẩn dụ hơn nữa. Ví như hình ảnh bức tượng thiên thần mà người đàn bà nặn. Đó là một bức tượng dang dở, thiên thần bị gãy cánh, nhưng người đàn bà vẫn tiếp tục đem nung nó. Để khi trở về sau giai-đoạn-nhà-tù, chị quyết định đập tan đi. Đó là hình ảnh về việc người phụ nữ làm rơi áo chồng khi phơi từ ban công, khi không cảm thấy sự gần gụi của anh, chị bỏ chiếc áo bẩn (bị xe hơi chẹt qua) vào sọt rác ven đường. Khi thấy được sự quay-đầu của chồng, chị mang lên cất lại. Hay hình ảnh về những nắm tuyết được ném đi theo vòng tam giác trong trò chơi ném tuyết của gia đình người phụ nữ khi cô bước chân từ cổng nhà tù ra với đôi môi bầm máu vì nụ hôn giết người. Tuyết rất dễ tan, mọi thứ khó khăn cũng như nắm tuyết ấy, khi đã nắm được lại, và ném đi thì rồi cũng sẽ tan biến. Hoặc ẩn dụ về chiếc camera trong trại giam. Chiếc camera là nhân chứng im lặng trong suốt quá trình tìm lại mình của người đàn bà, nó chỉ đi theo và ghi lại, chứng kiến và im lặng, giống như những người theo dõi bộ phim. Việc Hiểu hay Không hiểu, chọn cách Thở hay Không thở, hãy cứ để người coi tự quyết định.
Trong Breath, Kim Ki-duk không mài nhuyễn mọi hình ảnh đẹp đến run sợ như trong Xuân, Hạ, Thu, Đông rồi lại Xuân như mọi người thích thú. Gam màu trầm và lạnh phản ánh mùa đông hiện thực, góc quay bình thường, đôi lúc sử dụng những cảnh quay kém chất lượng (thông qua màn hình camera trại giam). Nhưng điểm thú vị và gợi tả nhiều nhất là những bài hát được chọn cho bốn mùa tượng trưng trong bốn lần người đàn bà đến thăm người tù. Đó là những bài hát rất quen thuộc, không chỉ với người Hàn mà với nhiều người nghe trên toàn thế giới, đã được dịch qua nhiều thứ tiếng thông dụng như Anh, Pháp,… Cả ở Việt Nam. Tôi nghĩ, đó là cách để giảm tải nhiều hơn cảm giác căng cứng của khán giả khi coi phim, cũng là cách tiếp cận khán giả gây thiện cảm nhiều hơn, bên ngoài ý nghĩa chính của nó là nội dung bài hát nhằm dẫn dắt người xem qua nhiều cung bậc của sự thay đổi về nhận thức được ý nghĩa Sống của nhân vật chính – người đàn bà.
21.5.09
Tiêu đề gì nhỉ... thì là TIN NHẮN
"Em mặc áo xanh trời
Mắt nheo nheo nhìn nắng
Quáng quàng giữa dòng người
Chỉ vô tình với tôi"
Đấy, xin thưa. Em đi giữa chiều nắng về nhà. Tin nhắn đầu tiên nhận được nó là như thế đấy.
Thời buổi Sim số lạ như nấm sau mưa. Chẳng biết đồng chí nào. Xin thưa, bác nào nhìn thấy em quáng quàng trên đường thì xin gọi em tí. Dạo này mắt mũi em nó không tốt vì em lười mang kính.
Nhắc tới cái áo xanh trời. Một cái áo không vừa vặn. Vì lẽ tất nhiên, áo ấy em bóc tem hộ "kẻ tự nhiên thảo tính".
Dạo này các bác nói em mất hút đi đâu mà không thấy ho he gì. Thú thật, dạo này em thèm ngủ kinh khủng dù đã ngủ hết mức có thể. Em ngủ nhiều và mắt em vẫn "anh quạ đen" chính hãng.
Nhà đang có 2 đồng chí ăn kiêng. Kiêm thể dục thể thao sáng sớm và tối muộn. Mục tiêu của 1 trong 2 đồng chí ấy là lôi được em dậy sớm. Đồng chí ấy còn chẩn đoán cho em căn bệnh nghe cũng lạ tai "trẻ lười vận động". Đến là khốn khổ :))
Em đang cày ác liệt các phim đen trắng của điện ảnh VN từ thời những năm một ngàn chín trăm hồi đó. Đang u ám mà vớ đúng "Chị Dậu". Gần tới phát rồ :))
Thế thôi. Em xí xớn với Chồng ngố tí. Chồng ngố đang ốm.
Mai thi vấn đáp.
PS: miss miss miss :(
16.5.09
OWL AND THE SPARROW
Cú và chim se sẻ!
Nơi đâu của chốn này, con người ta cũng đang dần mất lòng tin vào nhau. Chuyện phim giống ngụ ngôn. Những người làm nghề học cách để trở thành nghiệp dư. Máy quay rung rung. Lời thoại ngắn, rời.
Và không giống 1 bộ phim nhưng rõ ràng chỉ có thể là phim.
Chốn ấy 8 triệu dân và 3 con người, tình cờ họ gặp nhau.
Thích!
10.5.09
EM BẢO ANH: "ĐI ĐI"
Kaputikyan, Silva Barunakovna (1919-)
Да, я сказала: "Уходи"...
Да, я сказала: "Уходи", -
Но почему ты не остался?
Сказала я: "Прощай, не жди", -
Но как же ты со мной расстался?
Моим словам наперекор
Глаза мне застилали слезы.
Зачем доверился словам?
Зачем глазам не доверялся?
Em bảo anh: “Đi đi!”
Sao anh không ở lại?
Em bảo anh: “Đừng đợi!”
Sao anh lại ra đi?
Những lời em trái ngược
Mắt em lệ đầy vơi
Tại sao anh tin lời?
Sao không nhìn đôi mắt?
PS:
Thức dậy trời trong xanh
Nhớ anh đủ dùng trọn một ngày
Lặng lẽ đếm thời gian.
( Em ví dụ vậy )
4.5.09
THE HOUSE IS NOT THE SAME SINCE YOU LEFT
The house is not the same since you left
the cooker is angry – it blames me
The TV tries desperately to stay busy
but occasionally I catch it staring out of the window
The washing-up’s feeling sorry for itself again
it just sits there saying ‘What’s the point, what’s the point?’
The curtains count the days
Nothing in the house will talk to me
I think your armchair’s dead
The kettle tried to comfort me at first
but you know what its attention span is like
I’ve not told the plants yet
they think you’re still on holiday
The bathroom misses you
I hardly see it these days
It still can’t believe you didn’t take it with you
The bedroom won’t even look at me
since you left it keeps its eyes closed
all it wants to do is sleep, remembering better times
trying to lose itself in dreams
it seems like it’s taken the easy way out
but at night I hear the pillows
weeping into the sheets.
( Henry Normal )
PS: À uhm, em thích cách viết ấy đấy. Em cũng thích bài thơ ấy đến điên lên. Sao, không gợi ý để em tìm ra film ấy nhỉ?
Em chờ. Chờ để được thích film ấy đến điên lên!
Vâng, thế đấy!
the cooker is angry – it blames me
The TV tries desperately to stay busy
but occasionally I catch it staring out of the window
The washing-up’s feeling sorry for itself again
it just sits there saying ‘What’s the point, what’s the point?’
The curtains count the days
Nothing in the house will talk to me
I think your armchair’s dead
The kettle tried to comfort me at first
but you know what its attention span is like
I’ve not told the plants yet
they think you’re still on holiday
The bathroom misses you
I hardly see it these days
It still can’t believe you didn’t take it with you
The bedroom won’t even look at me
since you left it keeps its eyes closed
all it wants to do is sleep, remembering better times
trying to lose itself in dreams
it seems like it’s taken the easy way out
but at night I hear the pillows
weeping into the sheets.
( Henry Normal )
PS: À uhm, em thích cách viết ấy đấy. Em cũng thích bài thơ ấy đến điên lên. Sao, không gợi ý để em tìm ra film ấy nhỉ?
Em chờ. Chờ để được thích film ấy đến điên lên!
Vâng, thế đấy!
2.5.09
GIÓ DẠI _ BẢO NINH
Kìa ! Nghe thấy không, hình như là Diệu Nương đấy !
Nhiều tháng, và không chừng nhiều năm rồi đã trôi qua, Diệu Nương, cô gái ấy đã bị bắn chết từ những bao giờ vậy mà vào mỗi buổi mai, trước khi bắt sang một ngày mới, ở làng Diêm người ta vẫn mơ hồ ngái ngủ bảo với nhau thế. Như có thể nghe được quá khứ, như có thể thu được hồi thanh của thời gian vậy.
" Ta rong chơi giữa đời... ới a... biết đâu nguồn cội
Em xin làm bến đợi mà chân anh ghé qua... "
Khi đó là giờ của rạng đông yên tĩnh với ngôi sao Mai miền thảo nguyên to lạ lùng toả ánh biếc trên tầng không quang mây đang tảng sáng. Vào giờ đó mặt trời chưa mọc nhưng trên đồng cỏ bóng tối và sương mù đang nhẹ tách khỏi nhau, đang tan. Trong mông lung, làng mờ hiện.
Một vệt đường 14. Những cụm nhà mái tôn. Một ngôi nhà thờ.
Eo óc tiếng gà gáy da diết va cọt kẹt tiếng những con ròng rọc quay trên các miệng giếng trong làng. Làng Diêm thức giấc, buồn ngắt, chơ vơ, nổi lên chìm lịm giữa bốn bề mênh mông thảo nguyên bao la quạnh vắng.
Vào giờ đó, phía bên kia đồng cỏ những cỗ 105 ly trong căn cứ của Quân đoàn II vẫn đang ngon giấc và chiếc thám thính cơ L19 được dành riêng cho làng Diêm còn chưa chấm hiện lên ở chân trời. Dưới sông A Rang chảy qua bên làng, chiếc xe tải qua ngầm trễ nhất vừa lội lọt sang bờ bên kia, để lại những vòng sóng lan rộng tắt dần trên mặt nước mùa khô phẳng phiu.
Vào khoảng giờ này hồi trước trong thinh không đang ngân vang tiếng chuông giục giã giáo dân đi lễ mi-xa buổi sớm, nhưng trúng phải đạn đại bác tháp chuông đã từ lâu rồi im hơi lặng tiếng. Khắp sân nhà thờ toang hoác những hố bom và hố pháo không ai buồn lấp. Um tùm lùm bụi và gai góc tràn lấn các lối đi. Hàng sáng trên thềm đá dưới hiên nhà thờ, một vị linh mục trong bộ chùng thâm âm thầm tựa cửa ngóng mặt trời lên.
Suốt đêm, trên khúc đường 14 chạy ngang trước nhà thờ nườm nượp xe pháo và quân lính trẩy dọc qua làng. Bây giờ tất cả đã biến đi nhường chỗ cho buổi tinh mơ không một bóng người.
Sau sương, trên đường thôn nghe như có tiếng xe bò lăn bánh, lộc cộc lộc cộc ra đồng. đây đó, im lìm rải rác những mái nhà tôn còn ẩm hơi khuya nhè nhẹ thở ra làn khói bếp.
" Ta rong chơi giữa đời... ới a... biết đâu nguồn cội... ",
từ đâu đó dưói đáy sương nương theo ngọn gió sau chót của trời đêm đang lẳng lặng giã từ bờ sông và đồng cỏ, tiếng hát cất lên, bổng bay.
Trong cõi lòng ủ ê của linh mục thoáng rợn luồng cảm giác như dòng điện. ông rùng mình, bàn tay chực đưa lên làm dấu thõng rơi. Nhắm mắt lại, ông cúi đầu xuống, khẽ thở dài.
Xa, sau rặng đồi thâm thấp nhấp nhô trên bờ đông đồng cỏ vừng dương ướt át, mềm mại và tươi hồng đang thầm lặng nhô lên. Từ tù mù xám đục không gian bỗng trong vắt một vùng và cả nửa vòm trời đã ngả màu lơ. ánh sáng lung linh chảy thành dòng. Cùng với ngày mới tiếng hát dường như lớn lên mãi và tràn rộng ra, vừa sâu trầm vừa vút cao, tự thoát đi trở thành âm thanh vô chủ, ngân lên hoang dã trở thành khúc du ca của thiên nhiên.
Trong làng, bọn nhãi hát với theo Diệu Nương. Người lớn, ai nấy sững sờ.
Bên sông, trong trận địa phòng không bảo vệ ngầm, các pháo thủ đang làm những công việc chuẩn bị cho trận đánh trong ngày bất giác ngừng hết lại. Các trinh sát viên rời mắt khỏi bầu trời, dõi ống nhòm về phía làng.
" ... trăng ơi mày quá tệ... "
- Kìa ! Trông kìa, cô ta đấy !
Một người lính kêu lên, đưa tay trỏ.
Cảnh vật được ống nhòm làm cho xích gần lại. Sau những lùm cay che lấp con đường nhỏ viền quanh làng dường như thấp thoáng bóng người đàn bà đang hát. Trong màn ban mai, ảo mộng và thực tại lẫn lộn, âm thanh và hình ảnh nhoà nhập. Một thân hình thon thả, một dáng đi uyển chuyển. Suối tóc xoã trên lưng. Song đó có thể chỉ là hư ảnh của bài ca, một ảo giác lồng trong tiếng hát. Một bóng ma. Một bóng ma tha thướt và quyến rũ, mềm mại và sống động, nhưng có thể bỗng chốc tan biến trong huyền bí.
Đứng trên nóc hầm thông tin, đại đội trưởng và chính trị viên chuyền nhau chiếc ống nhòm.
Huyền thoại về Diệu Nương, ca sĩ ngụy Sài Gòn bị chiến sự thình lình cầm giữ trong vùng Giải phóng, lâu nay là câu chuyện hàng ngày ở pháo đội này. Trí tưởng tượng của từng người làm giàu thêm những chi tiết hoang đường.
- Rong chơi ! - Chính trị viên buông ống ngòm, nhăn mặt – Không bắt cái đồ đĩ ấy câm miệng lại, cả đại đội sẽ bị nó hớp hồn. Rồi sẽ khối đứa đâm đầu theo nó mà rong chơi.
- Nhưng làm sao cấm hát được ? Đại đội trưởng nhún vai
- Cấm ! Vì là nhạc vàng, là phản chiến, là ngụy ca !
- Đấy là Trịnh Công Sơn.
- Cũng thế thôi. Mà sao cứ đúng giờ này là nó nỉ non, hay nó làm ám hiệu ? Hay nó muốn rủ rê lính mình bỏ trận địa xuống ngủ với nó cho sinh bệnh mất sức chiến đấu, hả ? Có phải nó toan thế không ?
- Nhưng cô ta hát mới hay làm sao. Thật là một giọng hát tiên cô...
ở bên kia sông, một toán bộ binh đang lội qua vàm cỏ tranh. ánh kim loại lấp lánh. Người đi sau cùng dừng lại, ngoái nhìn về làng Diêm.
Mặt sông A Rang màu lam đang bốc hơi nghi ngút. Gió sang sông mang theo tiếng hát. Cơ thể người lính đón nhận tiếng hát với cái rùng mình. Giai điệu bài ca như đụng khẽ vào tim anh. Trong trẻo và sáng rõ như được tắm gội trong khí mát ban mai, nhưng càng lan xa bài ca càng rung lên nỗi buồn, một nỗi buồn sâu thẳm, cao vợi và rộng lớn vô biên, dường như tiếng hát ấy chính là nỗi niềm của thảo nguyên. Thảo nguyên tự do, mênh mông vô tận, chạy hút về phương trời xa xăm, không biết đến các tuyến tiền duyên, không màng gì tới chết chóc, trận mạc, bom pháo, giết chóc.
Buồn thay khúc du ca lạc loài. Nỗi sầu thương hồ hải.
***
Mặc dù người ta đồn thổi, người ta thêu dệt, đời Diệu Nương vẫn hoàn toàn là bí ẩn. Thiên hạ chỉ chắc chắn rằng Diệu Nương lưu lạc đến vùng sông A Rang này vào mùa hè năm 72, sau ngày quân Giải phóng tấn công và quân Sài Gòn tháo chạy, còn trước đó cô là ai, từ đâu cô phiêu bạt tới, tên thật của cô thế nào thì chẳng mấy người biết, mà những người xưng là có biết thì lại mỗi người kể mỗi phách. Ngay chính Diệu Nương hình như cũng không hề hay biết gì nữa về mình. Đời cô, cô dường đã quên cả
- Nghe nói khi dạt về đến đây cô ta chẳng còn lấy một manh vải che thân.
Tôi cũng nghe nói vậy. Song, vào " Mùa hè đỏ lửa " thì có riêng gì cô ta mới ra thân tàn ma dại, tôi nghĩ. Cũng như cỏ cây, số phận con người mà bị khói lửa chiến tranh ngốn thì chỉ thoáng chốc thôi là thành tro than.
Năm 72, chiến sự rùng rợn giết hàng đống người. Người chết, chết ngả rạ dọc các ngả đường, la liệt trên các nội cỏ và nổi lềnh phềnh trên mặt sông. Người còn sống sống ngắc ngoải, dở sống dở chết. Tứ phương tan tác. Cả đến thiên nhiên cũng như thể bị hoá kiếp. Cảnh làng biến tướng.
Thực ra thì không làm gì còn làng nữa. Ngày trước làng ồn ào nhộn nhịp, nửa làng nửa phố, nhà cửa san sát, trù phú, thịnh đạt. Cách thị xã chỉ mười cây số đường chim bay, làng được quân Mỹ gìn giữ. Đàn ông trong làng đi lính hưởng lương. Đàn bà chạy chợ. Cả làng ngoan đạo. Bây giờ thì bao nhiêu sự giàu có thời Mỹ-ngụy đều rữa nát và mục thối ra dưới những đống hoang tàn.
Ngày ngày làng rơi vào tầm đại bác từ thị xã rót về, và ngày ngày hàng đàn phi cơ tràn tới, hoặc cắn đuôi nhau bổ nhào hoặc bay bằng trút bom xuống làng, xuống hai bờ sông, xuống đồng cỏ. Cây cầu sắt bắc qua sông A Rang bị đánh sập. Công binh vận đá về làm ngầm, bom pháo càng thêm ác liệt. đất trời nghiêng ngửa.
Giữa năm 73, tiểu đoàn 17 pháo cao xạ được điều về giữ ngầm A Rang. Ba đại đội pháo 37 ly chốt hai bên bờ sông, tạo thế chân kiềng quần nhau với không lực Sài Gòn. Đại đội tôi bám chân ngay kề làng Diêm.
Một cái làng cô hồn. Cỏ dại, gai góc, lùm bụi, những đống gạch vụn, ngói nát, rầm gãy ngổn ngang. Rải rác, xiêu vẹo, những túp những nửa lều nửa hầm mọc ngoi lên trên nền đổ nát. Từ những đống hoang tàn bầy chó trong làng bươi ra đủ thứ nát bét của đời sống một thời đã sụp đổ : những mớ nhầu bấy, rách bươm và sặc sỡ váy áo, mũ mão, đồ da, đồ nhựa, những mảnh vụn đồ gỗ, đồ thuỷ tinh, vật dụng gia đình...cùng những khúc xương xẩu người và gia súc mà đàn chó xâu xé , giằng giật của nhau, tha đi, chuyền cho nhau như đánh khăng.
Dân cư của lang thưa vãn và suy tàn, đầy rẫy những nhân vật hoang dại. Đàn ông còn lại chẳng bao nhiêu mà đa phần lại là những phế binh đã hết thời được ngó ngàng chăm sóc, què cụt, đui mù, bẹp dí. Hầu như chỉ thấy đàn bà và trẻ con ló mặt khỏi nhà. Những mụ vợ lính lạc chồng, những ả goá rách rưới, rạc rài, không lai lịch và bầy trẻ ranh ốm đói trần truồng, bụng ỏng, gầygiơ xương.
Phần đông vốn không phải người làng Diêm. Mùa hè năm 72 từ nhiều thị trấn, làng mạc, khu gia binh họ nhập vào dòng thác chạy loạn đổ xô theo đuòng14 dồn về thị xã. Đụng phải xe tăng Giải phóng, biển người bị nén lại ở làng Diêm. Tại đây, vào lúc nửa đêm đã diễn ra một cuộc thảm sát.
Người ta kể lại rằng đêm ấy, nghe tiếng động cơ của một chiếc Dakota lượn ì ì trên bầu trời đồng cỏ, đám dân chạy loạn đã đốt lên cả ngàn ngọn đuốc. Một cây thánh giá khổng lồ đã được vẽ ra bằng lửa trên quảng trường trước nhà thờ. Trong đêm tối, người ta hò hét, kêu gào vẫy gọi con tau Nô-ê trên lưng chừng trời. Không ai nghe thấy những loạt đề pa, không ai nhìn thấy những nhoàng lửa đầu nòng chớp lên giần giật ở chân trời. Sau cả giờ chết chìm trong pháo bầy cấp tập, lại tiếp tục những lượt người tan xương nát thịt dưới trận mưa bom kéo rền rền tới tận sáng. Trong nhúm người may mắn còn được sống có lẫn Diệu Nương.
Bọn họ trở thành người làng Diêm từ đấy. Từ đấy tất cả bắt đầu cuộc đổi đời bắt buộc. Tất cả đều phải cam chịu sống đời gian khổ, ăn đói mặc rách, đổ mồ hôi trên nương sắn rẫy lúa tự cày cuốc nuôi thân. Tất cả đều phải sớm biết thu mình vào khuôn khổ kỷ cương của chính quyền mới. Những kẻ cứng đầu, những tên to mồm đều bị thẳng thừng trấn áp. Nhiều tên bị bắn, nhiều kẻ bị bắt.
Diệu Nương cũng đã một lần bị du kích tống giam. Họ nhốt cô ba ngày trong xà lim hầm đất vì tội nhiều lần hát những khúc ca ngụy. Được thả, cô vẫn chẳng chừa, vẫn buông thả không khuôn phép, tự do lãng đãng sống tách khỏi cộng đồng, và sáng sáng chiều chiều cô vẫn cứ hát, giọng ca huyền hoặc quỉ ám. Người ta đồn rằng đêm đêm cánh đàn ông vẫn mò mẫm tới túp lều nát của cô ở ven sông. Họ gõ cộc cộc vào cánh cửa gỗ dán hoặc cào sột sột vào vách liếp. Họ thu trong tay họ người thì phong lương khô hoặc túi gạo sấy, người thì hộp thịt, bao thuốc lá hay miếng vải, hay là kim chỉ, gương lược, diêm muối, đủ thứ để đổi lấy một thứ. Chẳng có bằng chứng nào, song tiếng tăm điên rồ và vô liêm xỉ của Diệu Nương vẫn xầm xì lan rộng. Có thể vì thế mà nhiều người bảo rằng ngày trước Diệu Nương là gái bán bar trong căn cứ Mỹ, thậm tệ hơn người ta còn bảo cô vốn là một con " thiên nga ", đậi khái là đồ đĩ rạc. Hư thực ra sao chẳng ai quả quyết, bởi vì còn những lời đồn đại hoàn toàn khác, những thuyết khác hẳn về nguồn gốc của Diệu Nương.
Nhiều người nói rằng thuở trước cô là một danh ca Sài Gòn. Ban nhạc của cô nhận lời lên biểu diễn cho một đơn vị biệt động quân đồn trú tại Tân Trấn. Suất diển cuối cùng rủi thay lại trùng với giờ N mở màn Mùa hè đỏ lửa. Xe tăng và bộ binh Bắc Việt tràn ngập Tân Trấn, tuyến phòng thủ vỡ, quân lính bị giết, ban nhạc tan tác. Diệu Nương theo dòng người chạy về tới làng Diêm thì cùng đường. ¸o xống lộng lẫy cửa nữ danh ca đã thành tã trong cuộc tháo chạy ngang qua đồng cỏ ngụt lửa. Đêm đến, trong hoả ngục rùng rợn của cuộc tàn sát, Diệu Nương bị vùi dưới núi xác chết chất trên sân nhà thờ. Hơn một ngày thở bằng hơi thở của các tử thi rồi cô mới được moi ra, trần truông, bê bết máu đặc. Và bởi chấn thương tinh thần do nỗi kinh hoàng đêm ấy mà Diệu Nương trở nên điên dại, người ta bảo thế. Lúc điên ngấm ngầm, lúc lấp lửng điên, lang thang, vật vờ, nửa mộng du, lúc bột phát quay cuồng, mất trí.
Từ đấy, mặc dù được giải phóng nhưng đời cô mai một. Bàn tay cô quá mềm, da quá mỏng không cầm rựa phát cây được, không nhấc nổi cuốc để cuốc đất, nên thân cô không được trui rèn, không tự cải tạo nổi bằng tăng gia sản xuất. Sắc đẹp của cô chỉ nhấn mạnh thêm lên vẻ lạc loài. Giọng hát của cô chẳng hữu ích cho ai trong thời buổi nghiệt ngã cam go, nay sống mai chết, nhọc nhằn và túng đói.
Tuy nhiên, ngày ngày,vào những ban mai và những hoàng hôn, bản năng xướng ca vẫn thúc bách Diệu Nương cất tiếng hát. Giọng ca tuyệt vời song thảng thốt như làn gió dại lướt xiên đồng cỏ trong ánh nhá nhem buồn thảm của mỗi ngày. Trong lời ca của Diệu Nương đau thắt nỗi nhớ quê nhà, nhớ đời nghệ sĩ, nhớ sàn diễn, nhớ khán giả, sắc đẹp và tuổi thanh xuân mà nay tất cả đã rời bỏ cô, đã xa lắc xa lơ ở bờ bên kia không thể vượt qua được của chiến tuyến.
"... nhưng ôi, chúng ta, chính chúng ta đây
một thời chúng ta cũng có
một quê hương và một mối tình... "
Ở làng Diêm bây giờ vẫn còn có người nhẩm lại được giai điệu và lời của bài hát buồn vô hạn ấy mà một buổi xế chiều xa xưa nọ Diệu Nương đã lần đầu hát lên. Chiều ấy, lúc xế tà, bộ đội dong tù binh qua làng. Hằng trăm lính áo rằn bị trói thành cặp, lầm lũi lê bước. Những lính áp giải đầu súng gắn lê, gay gắt, lạnh lùng lùa thúc đoàn tù đi mau qua khỏi khu vực dân cư.
Hai bên đường sau các ngưỡng cửa thấp lè tè lấp ló những khuôn mặt sợ sệt, bồn chồn. Dân làng mong tìm kiếm người thân trong đám tù binh nhưng chẳng ai dám mon men ra đứng ở vệ đường.
Chợt sau rặng cây phía cuối làng thấp thoáng bóng một người. Ấy là Diệu Nương, và giờ đấy, giờ tận chiều của mỗi ngày cũng là giờ xuất thần của cô.
Môi mấp máy, mắt nhìn chăm chăm, Diệu Nương rẽ đám cành lá, đi theo đoàn tù. Những người đàn ông lưng còng đang lê bước không để ý tới cô. Trong bóng chiều chạng vạng mặt mày họ tối om như mặt đất.
Bỗng người ta nghe thấy những âm thanh như tiêng ai khẽ nức nở. Diệu Nương lấy giọng yếu ớt và vấp váp hát lên một khúc ca hầu như chưa từng ai nghe thấy trên đời. Tiếng hát nhỏ, gai điệu u tối và không rõ lời.
Như nghẹn ngào, Diệu Nương ngừng lại lấy hơi rồi lại hát tiếp. Ở giữa khối tù một người chợt cất cao giọng. Rồi một người khác nối theo. Rồi nhiều người. Giọng hát của Diệu Nương như lướt một cái hôn dài trên môi tất cả. Đoàn tù biến thành dàn đồng ca. Những giọng đàn ông chung nhau một bè trầm át tiếng chân bước. Đội áp giải không bắt tù phải im miệng. Những ngọn lê chúc cả xuống.
Dân làng ra hết hai bên đường. Họ lặng lẽ đứng chôn chân nhìn theo đám rước đang khuất dần trong vầng bụi bốc lên trên con đường tù đày vô định xuyên qua thảo nguyên bát ngát. Bài ca của Diệu Nương và của những chiến binh xấu số vang lên trong thinh không lúc ấy đã tràn đầy bóng tối.
" Trong cuộc huynh đệ tương tàn
Chúng ta chỉ là con sâu cái kiến
Nhưng ôi, chúng ta, chính chúng ta đây
Một thời chúng ta cũng có
Một quê hương và một mối tình... "
***
Giờ đây, Diệu Nương đã chết. Trên đồng cỏ, giữa vô vàn gò đống, nấm đất nào là nấm đất của Diệu Nương, ai là người có thể chỉ ra được ?
Và cả nấm mồ của người bị bắn chết cùng cô nữa, thất lạc nơi đâu trong đất trong cỏ ?
Cuộc sống triền miên trôi chảy. Cuộc sống không hề có trí nhớ. Những lớp lá rụng, những lượt thời gian. Đất cát. Cỏ cây. Mùa mưa. Mùa khô. Năm này tấp lên năm khác.
Ngôi nhà thờ của làng Diêm cuối cùng rồi cũng bị máy bay triệt hạ. Cỏ dại chôn vùi các bức tường đổ, nuốt dần các bậc thềm. Sáng sáng tiếng quạ kêu trong thánh đường hoang tàn gợi người ta nhớ tới vị linh mục. Ông ta đã bỏ làng ra đi, chẳng ai biết là đi đâu...
Bên sông trận địa pháo cao xạ chỉ còn chơ vơ những công sự hình móng ngựa đã sụt lở. Đây đó vài hố bom đìa hoác miệng. Những hố bom bi, bom phạt quang và hố đạn pháo thì thời gian đã san bằng. Và cái lối nhỏ ngày xưa đính pháo đội với làng Diêm nay chỉ lờ mờ một vệt trăng trắng uốn lượn lẩn khuất dọc bờ sông um tùm lau lách. Lính tráng đi xa chắc vẫn chưa quên con đường mòn ấy. Trên lối ấy, hồi đó, ngày hai bận anh nuôi từ trong làng gùi cơm canh ra trận địa. Ban dêm, nhất là những đêm tối trời, cũng lối ấy lính các khẩu đội tụt tạt mò vào làng " dân vận ". Thoáng bóng cán bộ đại đội hay là tuần tra của du kích, những kẻ xé rào đi ăn sương lẳng lặng né ngang xuống mép sông, thu mình trong bãi lau. Văng vẳng tiếng cuốc kêu phía đầu làng. Hơi ẩm màn đêm ướt lạnh vai áo. Cầm lòng không đậu.
Hồi ấy, lệnh trên gần như cấm tiệt bộ đội không được tiếp xúc với đám dân còn chưa được giác ngộ, còn nửa ngụy của vùng mới giải phóng. Không có nhiệm vụ tuyệt đối không được láng cháng vào làng. Kiêng kỵ như vậy thật kỳ quặc, nhưng quân lệnh như sơn, lơ mơ bị bắt quả tang đang vi phạm thì tha hồ mà kiểm thảo lên kiểm thảo xuống, rồi kỷ luật đảng kỷ luật đoàn đủ vành đủ vẻ tai vạ chuốc vào thân. Mặc dù vậy, lính gần dân lửa gần rơm.
Dẫu không phải là tình cá nước, nhưng thời gian trôi qua quan hệ vụng trộm giữa các khẩu đội pháo với những túp lều nát trong làng đã thầm lén in lên mặt cỏ một lối mòn. Ban ngày, trừ tổ anh nuôi không ai lai vãng trên lối đi ấy, nhưng đêm xuống đó là đường ân tình. Có lẽ tới bây giờ trong mỗi túp lều còn có thể gom lại hàng mớ kỷ vật và ở trong lòng mỗi người dân thì còn vương nhièu kỷ niệm về các tay lính pháo thủ cao xạ Bắc Việt ngày ấy. Người ta bảo rằng trong quan hệ quân dân khuất tất hồi ấy đã lén lút sinh ra không ít niềm quyến luyến, gồm cả những mối tình, cho dù hầu hết chỉ thoảng qua, vội vã, chợt nhen chợt tắt, tù mù, chẳng dẫn tới gì, chẳng đi tới đâu, nhưng vẫn là tình.
Hồi ấy niềm ước ao hạng nhất của lính pháo thủ là được vào làm phụ bếp cho anh nuôi trưởng Cù. Cả đại đội chỉ mỗi Cù chốt hẳn trong làng, còn hai phụ bếp thì phải luân phiên, mỗi tháng thay một lần.
Chẳng hiểu là tới bây giờ hai cái lán nứa nền âm, một nhà kho, một nhà bếp, được cất lên ngay cạnh khuôn viên nhà thờ có còn dấu tích gì không . Hồi đó, Cù nhắm vuông đất bên nhà chung bởi anh hy vọng đấy là toạ độ tương đối ít phải ăn bom. Bất tiện là phải chung giếng nước với ông cha đạo nhưng Cù thích cái giếng ấy, nước của nó trong và ngọt nhất làng. Còn cha cố thì tiếng vậy chứ cũng là người. Mặc dù trẻ tuổi song ôngta rất nghiêm túc, vẻ lễ độ khoan hoà, ứng xử biết điều hơn bất kỳ ai trong đám chúng dân làng Diêm. Cù không ưa gì họ. Rặt một phường vô dụng. Sống giữa đồng cỏ, đất đai vô thiên song vì là thứ dân tứ chiếng, một hạng nông dân miễn cưỡng, họ không thiết làm lụng để có cái ăn mà chỉ toàn xoay xở đắp đổi qua ngày. Có lẽ bọn họ đã quá quen với viện trợ Mỹ, quá quen nằm ngửa ăn sẵn, nên giờ đây lòng họ chỉ canh cánh hoài tiếc thuở vàng son đi lính và làm đĩ cho Mỹ cho ngụy, Cù nghĩ. Có lẽ bọn họ đều ngấm ngầm một lòng với địch, ngấm ngầm ngóng đợi một thời cơ, sau cái vẻ bề ngoài nhẫn nhịn và cam chịu mà Cù thấy là đê tiện.
Và nhất là bọn đàn bà. Cù không hiểu nổi can cớ làm sao mà đồng đội của anh nhiều tay lại để cho chúng hớp hồn dẽ dàng như vậy. Cả đại đội, năm chục thằng, bao nhiêu năm tút hút trong rừng sâu với nhau chẳng thành vấn đề gì, nhưng vừa kéo nhau ra nơi trời đất quang quẻ, có sông, có làng, có thấp thoáng bóng đàn bà là có chuyện. Mà nào phải là người phụ nữ hiền thục, trung hậu , đảm đang nơi quê xa ngoài Bắc hay các chị em giàu truyền thống cách mạng trog vùng hậu cứ. Cả làng, Cù nghĩ, rặt một lũ vi trùng giống cái.
" Vi trùng giống cái truyền bệnh tiêm la, giang mai... ", chí ít thì đấy cũng là cái cách anh thường nói để răn đe các tay phụ bếp.
Không phải bất cứ gã nào ngoài trận địa Cù cũng nhận vào tổ anh nuôi. Những tay nom tốt mã, những tay bẻm mép, láu lỉnh, lắm tài vặt, dễ léng phéng là Cù gạt ngay. Có tay nom bề ngoài củ mỉ cù mì nhưng phụ bếp mới quá một ngày đã bị Cù tống khứ về với mâm pháo vì hoá ra là một thằng tẩm ngẩm tầm ngầm.
" Đã là thằng anh nuôi ngày ngày thường xuyên với gạo nước rau mắm của đơn vị - Cù bảo – thì hai bàn tay phải tinhkhiết, cấm đụng chạm tới những sự uế tạp, dơ dáy, nhất là cấm kỵ không có được vọc vào đàn bà. "
Dân làng cũng sợ Cù. Chẳng ai dám mon men tới gần giếng gần bếp của anh. Dẫu có bắt quen được với tay phụ bếp nào, muốn xin xỏ hay đổi chác gì thì cũng phải đợi lúc Cù gùi cơm ra trận địa mới hòng.
Ngày hai lần, tinh mơ và chiều tà, để một người coi nhà, còn Cù cùng một anh nuôi viên nữa mang bữa ăn ra cho các khẩu đội pháo. Con Ních, một con chó săn nòi Lào nhỏ vóc và nhanh nhẹn, thính mũi cực kỳ chạy mở đường. Họ đi trên đường14 một đoạn ngắn rồi rẽ xuống, lối đi lượn vòng vèo trong làng qua các tụp lều nghèo nàn bệ rạc tường đất mái tôn. Họ đi, người hơi đổ về phía trước,hai bàn tay vòng sau chắp lại đỡ lấy đáy gùi. Hai cái gùi to như hai cái thùng phuy, bọc bao tải,toả hơi nóng và mùi cơm chín tới, mùi thức ăn lính.
Bầy chó trong làng thoáng bóng con Ních, chạy dạt. Đói meo, chúng núp sau các đống đổ nát, nhìn ra mà không dám sủa. Chỉ có mấy thằng bé rách rưới bị mùi cơm canh nóng sốt quyết rũ là lẵng nhẵng bám theo hai cái gùi.
- Bác anh nuôi ơi, bác anh nuôi... – Chúng kêu lên khàn khàn như đàn quạ.
- Bọn ngụy con, cút xéo ! – Cù quát
Nhưng nếu có ông lỏi nào gan lỳ theo dược tới cuối làng thì Cù dừng bước, vẫy nó lại. Anh móc trong bị cói đeo bên hông ra một củ sắn nướng hoặc bắp ngô luộc,có hôm cả một con cá khô. Anh bảo :
- Đó, cho mày. Có vậy thôi. Cơm canh bộ đội có chó gì. Sắn cõng gạo. Tàu bay chấm muối riềng. ¥n cách mạng đời chúng mày được giải phóng, nhưng phải biết chịu khổ. Phải biết cuốc cày mà nuôi lấy nhau, về bảo mẹ chúng mày thế. Đừng có ưỡn ườn ra trên giường mà chờ sung. Cách mạng còn dài. Đến hết đời chúng tao. Hết cả đời chúng mày...
Nghe nói đến tận bây giờ người ta vẫn thấy con Ních đi và về trên con đường ấy. Nó lần ra bờ sông, ngửi hít những cái vỏ đạn 37 ly đã rỉ xanh, rồi leo lên một cái hầm pháo cao xạ ngập trong cỏ tranh, nó đờ đẫn ngó làn nước trôi. " Bác anh nuôi ơi, bác anh nuôi ! ", một trong những thằng bé hồi ấy giờ đã lớn quen miệng cất tiếng gọi khi trông thấy con chó già cô độc bị bỏ rơi đang đi trên đường thui thủi. Dường như thằng bé còn nom thấy đằng sau con chó hình bóng hai người lính cấp dưỡng đang cõng trên lưng hai chiếc gùi.
Con chó bị riết vào lối mòn xưa. Và bao giờ nó cũng qua làng vào thời điểm thấp nhất của mặt trời : khi ban mai, khi hoàng hôn. Không gì có thể làm xao nhãng cuộc mộng du ấy. Không ai dám đụng tới con vật đó.
- Chính là nó đã giết chết Diệu Nương.
Những người mang mang biết chuyện bảo thế. Nhưng những người không hề hay biết gì về tấn thảm kịch cũng sờ sợ con chó, họ mơ hồ cảm thấy trong cuộc dạo chơi buồn thảm nhịp nhàng, lặp đi lặp lại của nó một vẻ mù quáng và điên dại đặc biệt con người.
***
Lần ấy, đến hẹn, khẩu đội 3 và khẩu đội 4 cử người vào làm anh nuôi thay cho Binh khẩu đội 1 và Tuấn khẩu đội 2 đã hết phiên. Nhưng trái lệ thường, Cù chỉ thay Bình còn giữ lại Tuấn. " Thằng Tuấn thạo việc rồi, với lại nó rất chịu thương chịukhó, có thể kế cận cho tôi làm anh nuôi trưởng cũng được ", Cù giải thích thế với chỉ huy đại đội.
Tuấn vốn gốc gác bộ binh. Bị thương nặng,đáng lý được ra Bắc rồi nhưng nghe động viên thế nào đó đã tình nguyện ở lại chiến trường. Người ta không điều Tuấn về lại đơn vị cũ mà bổ sung sang tiểu đoàn cao xạ. Anh về đại đội tôi mới được nửa năm, giữ chân pháo thủ số 3 ở khẩu đội 2.
Vóc người anh cao, ốm yếu, võ vàng, cổ lộ hầu, một vệt sẹo dữ dội do đạn bắn thẳng cày chéo từ mang tai xuống cằm. Miệng anh vì thế méo đi, cho anh cái biệt danh là Tuấn " mếu ". Mặc dù là dân Kinh Bắc nhưng Tuấn lầm lỳ, nóí ít lạ lùng và nói miễn cưỡng. Giữa một đám pháo thủ luôn ăn to nói lớn, thích tán dóc đấu láo, Tuấn âm thầm nín thinh, chẳng góp chuyện, chẳng bật cười, chẳng bao giờ tức khí nổi xung. Tuyệt đối thờ ơ lãnh đạm. Một nhà quí tộc hay một gã chán đời ?
Tuấn dửng dưng với những cú bổ nhào trực tiếp lao cắm mặt xuống cắt bom của máy bay cường kích. Bom nổ xa, nổ gần, rốckét nã trúng bờ công sự, Tuấn kệ. Song cái thứ tính khí lạnh nhạt, bàng quan với tất thảy ấy lại có vẻ hết sức thích hợp để làm pháo thủ số 3. Giữa cuộc hỗn chiến đất đối không, số 3 chân chính là người không hề để mắt tới máy bay, tới bom, tới đường đạn bắn lên trúng hay trượt, mà hoàn toàn ung dung tự tại, anh ta chỉ một nhiệm vụ là điềm nhiên bình thản quay tay quay điều chỉnh cự ly bắn đón cho pháo theo nhịp đếm của trắc thủ đo xa.
- Đánh nhau kiểu cao xạ sao mà tẻ - Có lần Tuấn ra lời bình phẩm như thế với tôi - Đánh trận mà như là đánh máy chữ. Chẳng có kịch tính gì, khác xa bộ binh.
- Tại cậu đứng mãi số 3 nên thấy thế đấy - Tôi bảo – Nếu muốn thì đề nghị khẩu đội trưởng cho hoán vị, tớ đứng số 3, cậu ngồi ghế số 2 của tớ mà dận cò.
- À không. Là nói thế. Chứ bảo mình thế nào thì mình thế nấy. Chả xin gì chả ước gì. Thế tuốt !
- Chán đánh nhau sao không ra Bắc, lại ở lại ?
Tuấn nhún vai.
- Hay thất tình ? Chắc hay tin vợ ở nhà ngủ với dân quân chứ gì ?
Tuấn " à " một tiếng rồi lại ngậm tăm. Miệng méo xệch.
Thực ra Tuấn vợ con chưa, ai mà biết. Cả chính trị viên cũng không nắm được gì nhièu về Tuấn ngoài mấy dòng trong lý lịch quân nhân. Tuấn chẳng tâm tình, chẳng thiết thổ lộ. Chẳng bao giờ tháy anh viết thư hay được thư. Họp hành, anh ngồi im. Cùng lắm là ậm ừ.
Ngoài cái nết kín bưng nổi bật ấy, Tuấn có nét nổi bật nữa là tài chơi đàn. Khác với lối chơi ghi ta thường thấy của lính, Tuấn không vừa đàn vừa dậm chân rung đùi, không lúc lắc vai, không vừa đàn vừa huýt sáo hay là ư ử trong họng, anh đàn một cách thẫn thờ, chẳng phải để cho ai nghe, cũng chẳng phải cho mình.
Cậu chơi bài gì nghe lạ vậy Tuấn ?
Tuấn lại chỉ " à " khẽ một tiếng.
Vào làm anh nuôi, Tuấn cũng xách ghi ta theo. Một cây đàn cũ kỹ, thùng đàn xây xát, nhưng mà tiếng rất tốt. Nghe nói Tuấn đã tha theo cây đàn này vào bộ đội và mọi người đều lấy làm lạ không hiểu bằng cách nào mà anh vẫn giữ được nó qua bao nhiêu là chặng của đời lính.
Vào làng buổi sáng, chiều Tuấn đã cùng Cù đưa cơm ra trận địa. Gùi canh môn thục tổ bố bốc khói trên lưng.
- Vất vả không Tuấn ?
- Cũng vất
- Bọn đàn bà làng Diêm thế nào, giàu kịch tính không ?
- À
Tuấn hờ hững. Bảo ở pháo thì ở, bảo vào làm anh nuôi thì vào, anh chẳng sốt sắng cũng chẳng thoái thác. Im lìm nguội lạnh, chẳng nói chẳng rằng, song anh làm việc hết mình, không hề nề hà ngại khó, chẳng bao giờ kêu ca.
Lúc đầu Cù không thích Tuấn, anh bực với cái lối âm thầm ngậm tăm ấy, nhưng rồi cũng đâm quen. Trầm tính không phải là một cái phốt, vả lại làm anh nuôi thì cả ngày đầu tắt mặt tối, túi bụi, tất bật, luon chân luôn tay còn đâu thời gian hở ra mà chuyện vãn.
Chỉ có một khoảng ngắn ngủi về khuya, khi một ngày cơm nước cho đơn vị đã chu toàn, ba chàng cấp dưỡng mới được tắm táp, nghỉ ngơi, tranh thủ trao đổi với nhau đôi lời trước khi mệt nhọc rũ người xuống võng. Cù lôi rượu ra. Mỗi thằng nhấp một chén và nghe Cù cắt cử phần việc phải làm ngày mai. Hôm nào được chút thảnh thơi, Cù và Bình đánh bài, còn Tuấn thì gỡ cây đàn treo trên vách xuống, chầm chậm so dây rồi nhè nhẹ phác một giai điệu.
Bấy giờ, khoảng đầu tháng Năm ta, đêm thường mưa. Ngoài sông A Rang nước lên, con lũ chuyển mùa ầm vang đồng cỏ. Trên mây sấm lăn rền rền.
Bình huýt sáo nhịp theo khúc nhạc. Cù buông bài, quay sang lặng lẽ nghe Tuấn đàn. Âm điệu quá quen thuộc mỗi sáng mỗi chiều. " Ta rong chơi giữa đời biết đâu nguồn cội ".
Ngoài trời miên man mưa, không khí trong lán ẩm ướt. Quầng sáng đèn dầu vàng ủng. Đời lính buồn rầu hiu hắt. Như tiếng thở dài.
***
Bếp anh nuôi của pháo đội cao xạ và căn nhà của linh mục nhìn sang nhau qua một vườn rau. Hai bên dùng chung cái giếng xây và cùng đi một lối để vào làng.
Nhà của linh mục cũng nền âm, lại thêm bốn ụ đất chống mảnh bom bao quanh nên từa tựa một cái hang. Trong tu phòng chẳng có đồ đạc gì. Một chiếc chõng tre với nệm rơm và gối gỗ, một cái kệ để sách và ảnh thánh. Bên ngoài cửa ra vào treo một cái giá, hàng sáng con chiên trong làng đưa cơm tới để lên giá đó cho linh mục. Mỗi ngày ông ra khỏi tu phong đôi ba lần và hầu như chưa hề đi đâu vượt ra ngoài khuôn viên nhà thờ. ông sống thu mình kín đáo trong vòng chí thánh.
Bỗng dưng ông rời bỏ nhà thờ, rời bỏ làng Diêm, lặn mất tăm. Ngày ông biệt tích trúng với ngày Diệu Nương bị giết. Lập tức sinh ra những lời đồn thổi. Tất nhiên chẳng có bằng cớ gì. Có điều từ đấy trong hầu hết các câu chuyện và các giả thiết về đời Diệu Nương người ta đều thấy thấp thoáng bóng cái áo chùng thâm.
Bản thân linh mục cũng là một số phận xui xẻo. Tai hoạ đến với ông cũng bất ngờ, na ná tai hoạ dành cho Diệu Nương. Nhằm đúng hôm ông lĩnh mệnh bề trên về nhà thờ làng Diêm cai quản xứ đạo thì Việt Cộng đùng đùng đánh lớn. Chiếc xe đò đưa ông từ thị xã về làng chưa kịp vào bến đỗ đã nghe súng nổ ran dọc bờ A Rang. Pháo 130 ly cấp tập nã và xe tăng T54 xuất hiện thình lình trên đường 14 tàn nhẫn cắt lối chạy lui. Hành khách đổ xuống xe xô nhau chạy và đám đông con chiên đang tề tựu để mừng đón cha xứ cũng lâp tức nháo nhào tan tác.
Người ta bảo rằng đúng vào cái đêm khủng khiếp, đêm bọn Mỹ dập pháo và dội bom xuống biển người di tản, tình cờ Diệu Nương nằm kề bên linh mục. Chính ông đã moi cô ta ra khỏi núi xác chết. Và mặc dù khi ấy Diệu Nương chỉ còn là một cái xác loã lồ, bê bết máu me, ông đã làm cô hồi tỉnh, đã cứu sống cô. Ông cưu mang cô từ đấy.
Diệu Nương sống nhiều tháng trong nhà thờ, kề cận cha xứ, y như thể cô là một ma-xơ hay là một người bõ, một người bõ đàn bà. Sống như thế tất nhiên là trái lẽ song giữa hỗn mang đại loạn của thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng điều răn nào là còn hiệu lực, chẳng lề luật nào mà không bị nới lỏng.
Về sau, khi đã bỏ ra sống ở túp lều ngoài rìa làng,Diệu Nương vẫn thường lẻn về nhà thờ với cha. Để xưng tội, chắc thế nếu cô là giáo dân, và tiếp tế cho cha bằng những tặng phẩm mà hàng đêm người này người khác vẫn lén lút đưa tới dấm dúi biếu xén cô. Êy là những thức họ san sẻ ra từ khẩu phần lính mỗi ngày, hoặc là những đồ nhu yếu họ quơ được khi thu chiến lợi phẩm. Diệu Nương nhận quà cáp và ngủ với tất cả, khi thì ở trong lều, khi ở ngoài bờ sông trên bãi cỏ dưới trăng mờ.
Cô là đồ đĩ rạc, song từ bao giờ cô đâm ra thế, cô không nhớ mà mọi người cũng vậy, không nhớ không biết. Không lẽ từ ngày được giải phóng, được đổi đời, cô trở thành đồi bại ?
Rất có thể bản tính Diệu Nương hư hỏng sẵn rồi. Chẳng vậy mà thiên hạ đồn cô gốc gác " thiên nga " ? Ngủ với cô rồi, giữa hai chầu rượu nhiều kẻ kháo nhau về cô, bảo cô là cái ổ của những tật bệnh xấu xa.
Riêng tôi, mà có lẽ chẳng riêng tôi, không coi nết lang chạ của Diệu Nương là hư đốn hay đồi bại gì sất. Đến với Diệu Nương tôi đã được hưởng những phút chưa từng được hưởng bao giờ ở quê nhà ngoài kia.
Nhiều năm qua rồi mà tôi vẫn không muốn quên và thực ra thì cũng không thể nào quên nổi. Bần thần, ký ức tôi mơ màng mộng tưởng ra trước mắt hình bóng của Diệu Nương, khi Diệu Nương một mình đi trên đường vắng, giáng đi mềm mại uyển chuyển đung đưa toàn thân, hay khi cô thẫn thờ ngồi lặng bên sông, hay là khi...
Những khi ấy, trái tim rộn ràng kinh hãi,tôi từ ngoài đêm rẽ manh chiếu Diệu Nương dùng thay mành cửa, bước vào trong lều tối đen.
- Lại đây, anh lính của em. Đừng sợ. Chỉ có mình em trong này thôi.
Tôi bước tới một bước và bất ngờ chạm vào một cái gì đó tuyệt vời, một cái gì đó nóng hổi, mềm mại, dập dờn, một cái gì đó không thể diễn tả. Và ngay lập tức tôi bị du vào một địa ngục ngọt ngào.
- Bạn tình của em, anh tên là gì ? Có phải lần đầu anh tới với em không ?
Tấm thân óng ả của Diệu Nương mà đời sống cơ cực vùng giải phóng chưa kịp huỷ hoại đượm một vẻ gì thật quá đỗi đàn bà, đàn bà hơn tất cả những người đàn bà khác nhập lại. Không chỉ những cái vuốt ve của cô, không chỉ có những lúc cô xuất thần thác loạn, tận lực nồng nàn âu yếm, cô rên rỉ, cô giở trò, cô im lặng hổn hển mà cả khi đã nguội đi, mệt nhoài bải hoải, ở cô vẫn dào dạt ma lực của tội lỗi đàn bà.
- Anh đã đi à, đã đi rồi sao ? – Cô níu tay tôi – Còn lâu mới sáng. Hãy nán lại một lát đã anh. Em còn muốn ngỏ với anh điều này. Chỉ một điều này thôi...
Nhưng không mấy ai chịu nán lại. Càng không ai muốn nghe cái điều duy nhất mà Diệu Nương mong được thổ lộ với người bạn tình thoảng chốc. Không ai muốn nghe bởi không ai có thể làm gì cho điều mong ước ấy của cô. Nó quá tội lỗi, quá đáng sợ, lại hão huyền. Có lẽ Diệu Nương tưởng đâu rằng trên đời này vẫn còn sẵn lắm những kẻ điên rồ dám vì tình mà liều mạng và vì tình mà cả gan làm phản.
Nhưng để lần sau lại có thể dến với Diệu Nương, nói chung chẳng ai dại gì làm cô mất hy vọng, người ta cứ hứa, hứa đại. Lời hứa gió bay.
Bởi vì ai cũng vậy cả nên chẳng ai ngờ rằng ấy thế mà vẫn có kẻ giữ chữ tín với Diệu Nương. Y hứa sẽ giúp cô và y đã y lời.
***
Về sau, khi sự đã rồi, mới nghe nhiều người bảo rằng thực ra trước đây khi còn ở bộ binh Tuấn đã có nhiều dịp ghé làng Diêm và vì thế đã quen Diệu Nương từ hồi ấy. Hồi ấy cánh cao xạ chúng tôi chưa về lập trận địa ở bờ sông A Rang và Diệu Nương hồi âý vẫn đang dung thân dưới mái nhà của vị linh mục.
Người ta kể rằng làng Diêm dạo đó đói dài. Một chút ít lương thực được bộ đội cứu trợ cho hồi mới giải phóng đã cạn. Chính quyền cách mạng ra lệnh tăng gia tự túc. Cả nhà thờ cũng phải tự liệu lấy kế sinh nhai.
Bởi vì một vị linh mục thì không đời nào lại chịu phận cày cuốc, Diệu Nương phải lo làm lụng cho cả hai. Cô theo những người đàn bà trong làng đi phát nương trồng sắn. Nhưng không quen nhọc nhằn, cầm rựa chặt được một nhát là lại một lát cô cám cảnh ngồi ôm mặt sụt sùi. Gần trọn một ngày mà đám nương của cô vẫn y nguyên cây cối lùm bụi.
Bấy giờ có một tốp mấy người lính dừng chân mắc võng nghỉ ở ven sông và họ đã chứng kiến cảnh ngộ của Diệu Nương. Thoạt đầu họ cười nhạo, chế giễu và thương hại thay cho cái giống đàn bà gốc ngụy chẳng khác chi người giấy, quen thói lười nhác, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, bây giờ đây mới được biết thế nào là mồ hôi nước mắt một kiếp người. Nhưng dần dần tình cảnh khổ sở của Diệu Nương nhói vào lòng những người lính nỗi thương cảm. Họ rời võng, đi tới bên cô, họ an ủi và đề nghị được ra tay giup đỡ cô.
Và vậy là từ đầu tối tới cuối đêm, mấy chàng bộ đội xoay trần đốn cây cho nhà chung. Họ phát quang cả một vạt rừng. Lúc từ giã , một người trong tốp bộ đội xưng tên là Tuấn. Anh hứa dăm hôm nữa sẽ trở lại giúp Diệu Nương đốt rẫy. Và anh đã giữ lời.
Rẫy của Diệu Nương được đốt gọn và sạch nhất làng, cháy đều, khốngót một thân cây nào cháy dở dang. Chia tay, Tuấn lại hẹn ngày về cùng Diệu Nương vùi hom sắn.
Cơn mưa đầu mùa, sắn lên xanh non và chẳng bao ngày mà lá sắn đã phủ kín rẫy. Quanh rẫy, Tuấn gieo thêm hạt bầu và trên vạt đất phía sau nhà thờ Tuấn giúp Diệu Nương mở một vườn rau.
Và cứ vậy, không hiểu xoay xở cách nào, cách năm ngày, cách mười ngày, từ chốt vùng ranh ven thị xã, Tuấn băng đồng cỏ về làng thăm Diệu Nương.
Cũng thờigian ấy Diệu Nương rời nhà thờ ra ở túp lều mà Tuấn đã dựng cho cô nơi rìa làng. Hình như nhờ có Tuấn, Diệu Nương đã mất đi cái vẻ não nùng của những ngày mới được giải phóng. Người ta thấy ánh mắt cô long lanh và đôi khi người ta thấy cô mỉm cười.
Có những lần, từ chốt Tuấn lẻn về với Diệu Nương mang theo cả cây ghi ta. Anh đàn khẽ cho Diệu Nương thầm thì hát. Hồi âý cô chỉ hát nho nhỏ thế thôi, nồng nàn, giữa hai người với nhau.
Chắc là giữa hai người đã có sự thề bồi. Chắc là Diệu Nương đã thổ lộ điều ước nguyện da diết nhất của cô. Cô ước được thoát kiếp sống càycuốc cực khổ ở chốn gian lao xa lạ này, cô ước được người đáng tin đưa mình vượt qua chiến tuyến trở về với quãng đời êm ấm thân thuộc trước ngày được giải phóng.
Với Tuấn, vượt hơn mười cây số với những bãi mìn, những điểm chốt chặn không phải là điều không thể. Thêm nữa, ấy là những ngày mở đầu Thời Hiệp định, những ngày bỗng dưng đất trời yên lặng. Mùa khô mà vắng bặt tiếng máy bay và tuyệt nhiên không một phát đại bác.
Say đắm ái tình và bốc đồng hy vọng thái bình, Tuấn đã hứa hẹn. Hứa thật lòng, có lẽ. Chỉ có điều là bỗng nhiên anh biến mất. Năm ngày, rồi hàng tháng trời trôi qua, biệt âm vô tín, Tuấn không trở lại làng Diêm.
Từ đó, lặng lẽ Diệu Nương trở nên ngẩn ngơ và âm thầm cô trở thành sa đoạ. Cô chẳng hề nói gì với ai về Tuấn. Hình ảnh của anh và lời hứa của anh có lẽ đã tàn trong tâm trí cô. Duy có khát vọng tự do thì vẫn sống, vẫn lay lắt. Niềm ao ước cô từng thổ lộ với Tuấn biến thành tiếng hát cất lên dài dại mỗi sáng mỗi chiều. Và đêm đêm Diệu Nương vẫn tìm kiếm những hứa hẹn viển vông, mỗi ngày một viển vông hơn theo đà chiến sự càng ngày càng tàn bạo. Bom đạn tơi bời tàn phá làng Diêm, phũ phàng quét sạch mọi manh nha của hoà bình.
Cho tới một đêm nọ, một đêm mưa, trên đường mò vào nhà thờ với ông cha cố, khi đi tắt qua vườn rau gần lán của những người lính anh nuôi, Diệu Nương chợt nghe thấy văng vẳng tiếng đàn. Lẳng lặng cô đi gần tới, ghé nhìn qua các bụi cây. Đèn dầu lập lờ mờ tối. Diệu Nương không trông thấy người đang đàn, nhưng điệu đàn quen thuộc của những đêm xưa giúp cô nhận ra người ấy.
Thất thần, vô tri giác, Diệu Nương từ từ bước tới cửa lán. Bất ngờ, con Ních từ góc lán chồm lên, sua vang.
- Ai ? Cù vùng khỏi võng, chộp lấy súng, hét.
Diệu Nương lùi lại một bước, và khi tiếng đàn trong lán vụt tắt, cô xoay người chạy.
Cù lao ra cửa. Mưa đổ ào ào trước mặt anh.
- Thám báo ! – Cù quát - Đứng lại !
Dưới một nhoàng chớp bóng Diệu Nương hiện thoáng lên, rũ rươị, xiêu đảo.
- A ! Con đĩ ! Đứng lại, tao thì giết !
Cù gầm lên, phóng mình ra mưa va trượt chân, anh ngã sấp. Nhổm phắt dậy, điên tiết, Cù nâng súng quạt cả một tràng theo tiếng chân đang chạy chấp chới phía trước. Tuấn xô tới, giật súng.
- Thằng ngu xuẩn ! Đồ nông nô !
Tuấn gào, khản đặc, và mê muội đấm vào mặt anh nuôi trưởng. Anh quăng khẩu AK xuống vũng bùn cạnh Cù rồi lao mình vào mưa đêm đen đặc đuổi theo Diệu Nương. Khắp làng ran lên kẻng báo động. Du kích từ nhiều ngả ập tới.
Bình vựa Cù vào lán.
- Bọn du kích tới, mày bảo là không có chuyện gì nhá - Cù lấy ống tay áo lau khuôn mặt ròng ròng nước mưa và máu, nhổ cái răng cửa bị gảya và khó nhọc bảo với Bình - Nói với chúng là tao mê hoảng bắn bừa... Rồi mày đi tìm xem hai đứa chúng nó ra sao rồi...
Anh thở dài :
- Mà tại sao con đó nó lại vùng chạy cơ chứ, hả ?
Rất lâu sau này, kể lại chuyện đêm ấy, Bình ngậm ngùi bảo với tôi :
- Giá kể con đó nó không dính đạn, hai đứa chúng dắt nhau trốn đi ngay trong đêm ấy thì không chừng đã thoát được rồi cũng nên.
Giờ đây ngẫm lại, tôi thấy trong toàn bộ tấn thảm kịch xảy ra hồi đó Cù là nhân vật không tài nào ai hiểu nổi. Chính anh đã cố tình xả súng bắn Diệu Nương, lại cũng chính anh suốt một thời gian dài đã giúp vào việc chăm sóc cô. Cha xứ chỉ chịu hé cửa tu phòng cho một mình Cù. Bông băng, thuốc men, đồ ăn, ông chỉ nhận nếu là do Cù đưa sang. Tuấn bị ông cấm cửa.
Cù và Bình không hé răng hở chuyện. Toàn đại đội không ai biết Cù đã bắn bị thương Diệu Nương. Cũng không người nào hay có vụ xô xát giữa Cù và Tuấn. Càng chẳng ai ngờ có mối tình nung nấu mà mơ hồ giữa Diệu Nương và Tuấn.
Đến kỳ thay phụ bếp, Cù xin đại đội cho tổ anh nuôi được giữ Tuấn lại.
***
Bỗng nhiên, Diệu Nương biến mất. Không nghe thấy tiếng hát của cô nữa. Túp lều ở rìa làng bỏ chơ vơ, trống huyếch, xiêu mọp, ngập cỏ. Người ta đồn rằng cô đã bỏ trốn. Hoặc đã chết. Chết đuối, trôi mất xác. Cũng có thể là chết tan xác vì trúng phải một trái bom, trái pháo giáng trực tiếp xuống đầu.
Mùa mưa năm ấy dài đằng đẵng, buồn ê ẩm. Dần dần tôi thầm hiểu tôi buồn vì nuối tiếc Diệu Nương. Mà không riêng tôi, cả đại đội đều rầu rĩ. Dường như, mất bóng Diệu Nương thì chúng tôi chẳng còn lý do gì để bám lại trên mảnh đất này.
Đột nhiên vào ngày nắng hửng đầu mùa khô, chúng tôi hay tin Diệu Nương vẫn còn sống. Suốt mùa mưa cô ẩn trong nhà thờ để chữa trị vết thương. Nay cô đã gần khỏi. Chỉ có điều nay cô mới thực sự đã bỏ trốn.
Người thông báo cho chúng tôi tin đó chính là ông linh mục. ông ta lần ra trận địa pháo vào lúc tảng sáng, cái áo chùng ướt đầm sương.
- Người của các ông đã cám dỗ cô ta. Cái tên mặt sẹo, dáng vẻ lầm lỳ ấy. Hắn đã bội phản các ông, lại kéo cô ta phản Chúa.
Ông còn cho biết ông đã báo cho Cù ngay khi phát hiện Diệu Nương trốn đi với Tuấn, nghĩa là ngay từ nửa đêm. Vậy mà Cù đã không hề báo cáo gì cho đại đội.
Anh ta đứng đấy, đầu trần, răng nghiến lại nghe chính trị viên xỉ vả.
- Theo tôi, để cho họ đi ! - Cù nói, sa sầm - Còn nếu nhất định phải bắt lại thì chẳng khó. Vết thương cô ta chưa lành hẳn, không thể đi nhanh. Với lại, có con Ních...
Tôi có vinh dự tham gia nhóm tác chiến cùng Cù và hai trinh sát viên. Chúng tôi khẩn trương xuất kích. Con Ních thoăn thoắt chạy dẫn đường, kéo căng sợi dây da trong tay Cù.
Chúng tôi lặng lẽ rảo theo. Hàng dọc, súng lăm lăm. Lệnh trên là kiên quyết không để chúng trốn thoát mang theo bí mật về cuộc hành quân sắp tới của đơn vị.
Chỉ lạ là không hiểu sao dấu vết con Ních dò theo không nhằm về thị xã mà cứ men mãi bờ sông A Rang, ngược lên mé tây đồng cỏ. Phía đó chỉ có rừng rậm.
ý chí đuối dần. Chúng tôi lết đi chậm chạp. Bụi bốc lên dưới chân. Nhiều giờ trôi qua. Con Ních vẫn cần mẫn lần theo dấu vết vô hình lượn ngoằn ngoèo.
Chính vào lúc chúng tôi đã nản, tính chuyện quay về thì hình tích của hai kẻ trốn chạy đã thực sự hiện ra.
Dưới tán một cây kơ-nia mọc đơn độc giữa trảng cỏ tranh, Tuấn và Diệu Nương đã nghỉ chân. Đàn kiến đang tha đi những vụn cơm. Một mẩu thuốc rê vấn bằng giấy báo. Nhưng đặc biệt rõ ràng, hằn trên cỏ, như thể cỏ đã tạc nên thân hình người đang nằm. Một bức hoạ khắc nổi dáng vóc đàn bà, không thể nhầm được...
Chúng tôi đuổi kịp họ trước lúc mặt trời lặn. đã chớm tới vạt rừng đầu tiên ở bờ tây đồng cỏ.
Mệt nhoài, chúng tôi dừng lại trước một dòng suối lớn. Con Ních bị dòng nước xoá dấu vết. Chúng tôi ngồi xuống nghỉ. Im lặng đè nặng lên buổi hoàng hôn màu hồng thẫm.
Thốt nhiên, giữa sự im ắng và tiếng rì rầm của dòng suối, lướt nhanh qua không gian một âm thanh bất ngờ giống như một gợn sóng mỏng.
- Tiếng đàn ! – Cù khẽ thốt lên.
Chúng tôi sững sờ, lắng nghe, hồ nghi. Đã tưởng chỉ là một cảm giác sai lạc, không dè sau một lúc nín thở chờ đợi, chúng tôi nghe thấy khe khẽ tiếng hát.
Lội mau qua suối, chúng tôi nhẹ chân tiến tới. đấy là một dải rừng thông. Những cây thông cao vút, mọc cách thưa. Một tà khói mỏng bốc lên trong chiều. Chúng tôi khom rạp xuống, áp sát.
Một tiếng cành khô gãy dưới chân. Tiếng hát tắt lặng.
Tôi đứng thẳng lên sau một thân cây và căng mắt quan sát. Một cái bếp nhỏ với chiếc hăng-gô treo đung đưa trên lửa. Một chiếc võng dù căng giữa hai cây thông.
Im lặng kéo dài, kéo dài mãi. Tôi gạt chốt AK vào nấc liên thanh.
- Các bạn... Anh em ơi... – Giọng Tuấn - Chúng tôi chẳng làm hại gì cả... Không chống lại ai... Hãy để chúng tôi đi ...
- Câm mồm ! – Bào, trinh sát viên hét - Đứng dậy ! Giơ cao hai tay. Bước ra !
Một phút. Nhiều phút. Vẫn lặng phắc. Cù buông sợi dây da. Tôi thấy con Ních chạy xéo qua, và lát sau tôi nghe tiếng nó sủa ở bụi cây. Tiếng sủa rối rít, mừng rỡ.
Nhưng cũng đúng lúc đó, bụi cây lay động.
" Trong cuộc huynh đệ tương tàn... " - Tiếng hát.
- Đồ điên ! – Cạnh tôi, ai đó gầm lên - Con đĩ ! Này thì tương tàn !
Và tức thì súng nổ. Một khẩu nhả đạn kéo theo những khẩu khác cùng khạc lửa. Chớp đầu nòng nhằng nhằng xé rách lượt bóng tối đầu tiên đang phủ xuống khu rừng.
Bốn khẩu AK cùng bắn hết băng, cùng câm bặt. Bốn chúng tôi cùng lao vọt lên, cùng chết sững.
Sau bụi cây bị đạn băm, hai con người âý quấn lấy nhau. Những vết đạn như càng vặn xiết hai cơ thể vào nhau. Vào chớp mắt cuối cùng, người đàn ông dường như đã cố dùng thân mình đỡ đạncho người đàn bà. Nhưng đạn khoan qua người họ. ¸nh lửa từ bếp lấp loáng trên hai mảng lưng trần.
Chúng tôi đứng chết trân. Màn đêm vây dần lại. Cả bốn chúng tôi như bị trói vào nhau trong sự cam chịu một cái gì vô hình vô tận đang đổ xuống. Mùi thuốc đạn là dấu vết duy nhất của ý chí điên khùng, đã tan đi.
- Ê... ê ... Ních ! Ê... - Cù tru lên gọi con chó đã bị trận mưa đạn xua dạt vào rừng sâu.
Ngồi xuống bên Tuấn và Diệu Nương, tôi gỡ họ ra khỏi nhau.
***
Hai hôm sau chúng tôi nhận lệnh hành quân về phương Nam. Vĩnh viễn giã từ làng Diêm. Tôi đã bình tĩnh trở lại. Cả Cù cũng vậy. Cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước sẽ là lối thoát cho tâm hồn chúng tôi. Chúng tôi sẽ chiến đấu và sẽ quên.
Mùa khô nung vàng đồng cỏ. Và những ngọn gió dại gào hú làm bốc lên những cột lốc đỏ lòm. Những ngọn gió điên rồ như có móng vuốt, cào xé mặt đất.
Chúng tôi chỉ không ngờ rằng chúng tôi đang tiến vào mùa khô cuối cùng của cuộc chiến. Chúng tôi đã bắn chết những người báo trước hoà bình, vậy mà hoà bình vẫn đến.
PS: C2L nhí nhoáy một tí, đọc khoái không thể tả. Hummm
http://nhilinhblog.blogspot.com/
Nhiều tháng, và không chừng nhiều năm rồi đã trôi qua, Diệu Nương, cô gái ấy đã bị bắn chết từ những bao giờ vậy mà vào mỗi buổi mai, trước khi bắt sang một ngày mới, ở làng Diêm người ta vẫn mơ hồ ngái ngủ bảo với nhau thế. Như có thể nghe được quá khứ, như có thể thu được hồi thanh của thời gian vậy.
" Ta rong chơi giữa đời... ới a... biết đâu nguồn cội
Em xin làm bến đợi mà chân anh ghé qua... "
Khi đó là giờ của rạng đông yên tĩnh với ngôi sao Mai miền thảo nguyên to lạ lùng toả ánh biếc trên tầng không quang mây đang tảng sáng. Vào giờ đó mặt trời chưa mọc nhưng trên đồng cỏ bóng tối và sương mù đang nhẹ tách khỏi nhau, đang tan. Trong mông lung, làng mờ hiện.
Một vệt đường 14. Những cụm nhà mái tôn. Một ngôi nhà thờ.
Eo óc tiếng gà gáy da diết va cọt kẹt tiếng những con ròng rọc quay trên các miệng giếng trong làng. Làng Diêm thức giấc, buồn ngắt, chơ vơ, nổi lên chìm lịm giữa bốn bề mênh mông thảo nguyên bao la quạnh vắng.
Vào giờ đó, phía bên kia đồng cỏ những cỗ 105 ly trong căn cứ của Quân đoàn II vẫn đang ngon giấc và chiếc thám thính cơ L19 được dành riêng cho làng Diêm còn chưa chấm hiện lên ở chân trời. Dưới sông A Rang chảy qua bên làng, chiếc xe tải qua ngầm trễ nhất vừa lội lọt sang bờ bên kia, để lại những vòng sóng lan rộng tắt dần trên mặt nước mùa khô phẳng phiu.
Vào khoảng giờ này hồi trước trong thinh không đang ngân vang tiếng chuông giục giã giáo dân đi lễ mi-xa buổi sớm, nhưng trúng phải đạn đại bác tháp chuông đã từ lâu rồi im hơi lặng tiếng. Khắp sân nhà thờ toang hoác những hố bom và hố pháo không ai buồn lấp. Um tùm lùm bụi và gai góc tràn lấn các lối đi. Hàng sáng trên thềm đá dưới hiên nhà thờ, một vị linh mục trong bộ chùng thâm âm thầm tựa cửa ngóng mặt trời lên.
Suốt đêm, trên khúc đường 14 chạy ngang trước nhà thờ nườm nượp xe pháo và quân lính trẩy dọc qua làng. Bây giờ tất cả đã biến đi nhường chỗ cho buổi tinh mơ không một bóng người.
Sau sương, trên đường thôn nghe như có tiếng xe bò lăn bánh, lộc cộc lộc cộc ra đồng. đây đó, im lìm rải rác những mái nhà tôn còn ẩm hơi khuya nhè nhẹ thở ra làn khói bếp.
" Ta rong chơi giữa đời... ới a... biết đâu nguồn cội... ",
từ đâu đó dưói đáy sương nương theo ngọn gió sau chót của trời đêm đang lẳng lặng giã từ bờ sông và đồng cỏ, tiếng hát cất lên, bổng bay.
Trong cõi lòng ủ ê của linh mục thoáng rợn luồng cảm giác như dòng điện. ông rùng mình, bàn tay chực đưa lên làm dấu thõng rơi. Nhắm mắt lại, ông cúi đầu xuống, khẽ thở dài.
Xa, sau rặng đồi thâm thấp nhấp nhô trên bờ đông đồng cỏ vừng dương ướt át, mềm mại và tươi hồng đang thầm lặng nhô lên. Từ tù mù xám đục không gian bỗng trong vắt một vùng và cả nửa vòm trời đã ngả màu lơ. ánh sáng lung linh chảy thành dòng. Cùng với ngày mới tiếng hát dường như lớn lên mãi và tràn rộng ra, vừa sâu trầm vừa vút cao, tự thoát đi trở thành âm thanh vô chủ, ngân lên hoang dã trở thành khúc du ca của thiên nhiên.
Trong làng, bọn nhãi hát với theo Diệu Nương. Người lớn, ai nấy sững sờ.
Bên sông, trong trận địa phòng không bảo vệ ngầm, các pháo thủ đang làm những công việc chuẩn bị cho trận đánh trong ngày bất giác ngừng hết lại. Các trinh sát viên rời mắt khỏi bầu trời, dõi ống nhòm về phía làng.
" ... trăng ơi mày quá tệ... "
- Kìa ! Trông kìa, cô ta đấy !
Một người lính kêu lên, đưa tay trỏ.
Cảnh vật được ống nhòm làm cho xích gần lại. Sau những lùm cay che lấp con đường nhỏ viền quanh làng dường như thấp thoáng bóng người đàn bà đang hát. Trong màn ban mai, ảo mộng và thực tại lẫn lộn, âm thanh và hình ảnh nhoà nhập. Một thân hình thon thả, một dáng đi uyển chuyển. Suối tóc xoã trên lưng. Song đó có thể chỉ là hư ảnh của bài ca, một ảo giác lồng trong tiếng hát. Một bóng ma. Một bóng ma tha thướt và quyến rũ, mềm mại và sống động, nhưng có thể bỗng chốc tan biến trong huyền bí.
Đứng trên nóc hầm thông tin, đại đội trưởng và chính trị viên chuyền nhau chiếc ống nhòm.
Huyền thoại về Diệu Nương, ca sĩ ngụy Sài Gòn bị chiến sự thình lình cầm giữ trong vùng Giải phóng, lâu nay là câu chuyện hàng ngày ở pháo đội này. Trí tưởng tượng của từng người làm giàu thêm những chi tiết hoang đường.
- Rong chơi ! - Chính trị viên buông ống ngòm, nhăn mặt – Không bắt cái đồ đĩ ấy câm miệng lại, cả đại đội sẽ bị nó hớp hồn. Rồi sẽ khối đứa đâm đầu theo nó mà rong chơi.
- Nhưng làm sao cấm hát được ? Đại đội trưởng nhún vai
- Cấm ! Vì là nhạc vàng, là phản chiến, là ngụy ca !
- Đấy là Trịnh Công Sơn.
- Cũng thế thôi. Mà sao cứ đúng giờ này là nó nỉ non, hay nó làm ám hiệu ? Hay nó muốn rủ rê lính mình bỏ trận địa xuống ngủ với nó cho sinh bệnh mất sức chiến đấu, hả ? Có phải nó toan thế không ?
- Nhưng cô ta hát mới hay làm sao. Thật là một giọng hát tiên cô...
ở bên kia sông, một toán bộ binh đang lội qua vàm cỏ tranh. ánh kim loại lấp lánh. Người đi sau cùng dừng lại, ngoái nhìn về làng Diêm.
Mặt sông A Rang màu lam đang bốc hơi nghi ngút. Gió sang sông mang theo tiếng hát. Cơ thể người lính đón nhận tiếng hát với cái rùng mình. Giai điệu bài ca như đụng khẽ vào tim anh. Trong trẻo và sáng rõ như được tắm gội trong khí mát ban mai, nhưng càng lan xa bài ca càng rung lên nỗi buồn, một nỗi buồn sâu thẳm, cao vợi và rộng lớn vô biên, dường như tiếng hát ấy chính là nỗi niềm của thảo nguyên. Thảo nguyên tự do, mênh mông vô tận, chạy hút về phương trời xa xăm, không biết đến các tuyến tiền duyên, không màng gì tới chết chóc, trận mạc, bom pháo, giết chóc.
Buồn thay khúc du ca lạc loài. Nỗi sầu thương hồ hải.
***
Mặc dù người ta đồn thổi, người ta thêu dệt, đời Diệu Nương vẫn hoàn toàn là bí ẩn. Thiên hạ chỉ chắc chắn rằng Diệu Nương lưu lạc đến vùng sông A Rang này vào mùa hè năm 72, sau ngày quân Giải phóng tấn công và quân Sài Gòn tháo chạy, còn trước đó cô là ai, từ đâu cô phiêu bạt tới, tên thật của cô thế nào thì chẳng mấy người biết, mà những người xưng là có biết thì lại mỗi người kể mỗi phách. Ngay chính Diệu Nương hình như cũng không hề hay biết gì nữa về mình. Đời cô, cô dường đã quên cả
- Nghe nói khi dạt về đến đây cô ta chẳng còn lấy một manh vải che thân.
Tôi cũng nghe nói vậy. Song, vào " Mùa hè đỏ lửa " thì có riêng gì cô ta mới ra thân tàn ma dại, tôi nghĩ. Cũng như cỏ cây, số phận con người mà bị khói lửa chiến tranh ngốn thì chỉ thoáng chốc thôi là thành tro than.
Năm 72, chiến sự rùng rợn giết hàng đống người. Người chết, chết ngả rạ dọc các ngả đường, la liệt trên các nội cỏ và nổi lềnh phềnh trên mặt sông. Người còn sống sống ngắc ngoải, dở sống dở chết. Tứ phương tan tác. Cả đến thiên nhiên cũng như thể bị hoá kiếp. Cảnh làng biến tướng.
Thực ra thì không làm gì còn làng nữa. Ngày trước làng ồn ào nhộn nhịp, nửa làng nửa phố, nhà cửa san sát, trù phú, thịnh đạt. Cách thị xã chỉ mười cây số đường chim bay, làng được quân Mỹ gìn giữ. Đàn ông trong làng đi lính hưởng lương. Đàn bà chạy chợ. Cả làng ngoan đạo. Bây giờ thì bao nhiêu sự giàu có thời Mỹ-ngụy đều rữa nát và mục thối ra dưới những đống hoang tàn.
Ngày ngày làng rơi vào tầm đại bác từ thị xã rót về, và ngày ngày hàng đàn phi cơ tràn tới, hoặc cắn đuôi nhau bổ nhào hoặc bay bằng trút bom xuống làng, xuống hai bờ sông, xuống đồng cỏ. Cây cầu sắt bắc qua sông A Rang bị đánh sập. Công binh vận đá về làm ngầm, bom pháo càng thêm ác liệt. đất trời nghiêng ngửa.
Giữa năm 73, tiểu đoàn 17 pháo cao xạ được điều về giữ ngầm A Rang. Ba đại đội pháo 37 ly chốt hai bên bờ sông, tạo thế chân kiềng quần nhau với không lực Sài Gòn. Đại đội tôi bám chân ngay kề làng Diêm.
Một cái làng cô hồn. Cỏ dại, gai góc, lùm bụi, những đống gạch vụn, ngói nát, rầm gãy ngổn ngang. Rải rác, xiêu vẹo, những túp những nửa lều nửa hầm mọc ngoi lên trên nền đổ nát. Từ những đống hoang tàn bầy chó trong làng bươi ra đủ thứ nát bét của đời sống một thời đã sụp đổ : những mớ nhầu bấy, rách bươm và sặc sỡ váy áo, mũ mão, đồ da, đồ nhựa, những mảnh vụn đồ gỗ, đồ thuỷ tinh, vật dụng gia đình...cùng những khúc xương xẩu người và gia súc mà đàn chó xâu xé , giằng giật của nhau, tha đi, chuyền cho nhau như đánh khăng.
Dân cư của lang thưa vãn và suy tàn, đầy rẫy những nhân vật hoang dại. Đàn ông còn lại chẳng bao nhiêu mà đa phần lại là những phế binh đã hết thời được ngó ngàng chăm sóc, què cụt, đui mù, bẹp dí. Hầu như chỉ thấy đàn bà và trẻ con ló mặt khỏi nhà. Những mụ vợ lính lạc chồng, những ả goá rách rưới, rạc rài, không lai lịch và bầy trẻ ranh ốm đói trần truồng, bụng ỏng, gầygiơ xương.
Phần đông vốn không phải người làng Diêm. Mùa hè năm 72 từ nhiều thị trấn, làng mạc, khu gia binh họ nhập vào dòng thác chạy loạn đổ xô theo đuòng14 dồn về thị xã. Đụng phải xe tăng Giải phóng, biển người bị nén lại ở làng Diêm. Tại đây, vào lúc nửa đêm đã diễn ra một cuộc thảm sát.
Người ta kể lại rằng đêm ấy, nghe tiếng động cơ của một chiếc Dakota lượn ì ì trên bầu trời đồng cỏ, đám dân chạy loạn đã đốt lên cả ngàn ngọn đuốc. Một cây thánh giá khổng lồ đã được vẽ ra bằng lửa trên quảng trường trước nhà thờ. Trong đêm tối, người ta hò hét, kêu gào vẫy gọi con tau Nô-ê trên lưng chừng trời. Không ai nghe thấy những loạt đề pa, không ai nhìn thấy những nhoàng lửa đầu nòng chớp lên giần giật ở chân trời. Sau cả giờ chết chìm trong pháo bầy cấp tập, lại tiếp tục những lượt người tan xương nát thịt dưới trận mưa bom kéo rền rền tới tận sáng. Trong nhúm người may mắn còn được sống có lẫn Diệu Nương.
Bọn họ trở thành người làng Diêm từ đấy. Từ đấy tất cả bắt đầu cuộc đổi đời bắt buộc. Tất cả đều phải cam chịu sống đời gian khổ, ăn đói mặc rách, đổ mồ hôi trên nương sắn rẫy lúa tự cày cuốc nuôi thân. Tất cả đều phải sớm biết thu mình vào khuôn khổ kỷ cương của chính quyền mới. Những kẻ cứng đầu, những tên to mồm đều bị thẳng thừng trấn áp. Nhiều tên bị bắn, nhiều kẻ bị bắt.
Diệu Nương cũng đã một lần bị du kích tống giam. Họ nhốt cô ba ngày trong xà lim hầm đất vì tội nhiều lần hát những khúc ca ngụy. Được thả, cô vẫn chẳng chừa, vẫn buông thả không khuôn phép, tự do lãng đãng sống tách khỏi cộng đồng, và sáng sáng chiều chiều cô vẫn cứ hát, giọng ca huyền hoặc quỉ ám. Người ta đồn rằng đêm đêm cánh đàn ông vẫn mò mẫm tới túp lều nát của cô ở ven sông. Họ gõ cộc cộc vào cánh cửa gỗ dán hoặc cào sột sột vào vách liếp. Họ thu trong tay họ người thì phong lương khô hoặc túi gạo sấy, người thì hộp thịt, bao thuốc lá hay miếng vải, hay là kim chỉ, gương lược, diêm muối, đủ thứ để đổi lấy một thứ. Chẳng có bằng chứng nào, song tiếng tăm điên rồ và vô liêm xỉ của Diệu Nương vẫn xầm xì lan rộng. Có thể vì thế mà nhiều người bảo rằng ngày trước Diệu Nương là gái bán bar trong căn cứ Mỹ, thậm tệ hơn người ta còn bảo cô vốn là một con " thiên nga ", đậi khái là đồ đĩ rạc. Hư thực ra sao chẳng ai quả quyết, bởi vì còn những lời đồn đại hoàn toàn khác, những thuyết khác hẳn về nguồn gốc của Diệu Nương.
Nhiều người nói rằng thuở trước cô là một danh ca Sài Gòn. Ban nhạc của cô nhận lời lên biểu diễn cho một đơn vị biệt động quân đồn trú tại Tân Trấn. Suất diển cuối cùng rủi thay lại trùng với giờ N mở màn Mùa hè đỏ lửa. Xe tăng và bộ binh Bắc Việt tràn ngập Tân Trấn, tuyến phòng thủ vỡ, quân lính bị giết, ban nhạc tan tác. Diệu Nương theo dòng người chạy về tới làng Diêm thì cùng đường. ¸o xống lộng lẫy cửa nữ danh ca đã thành tã trong cuộc tháo chạy ngang qua đồng cỏ ngụt lửa. Đêm đến, trong hoả ngục rùng rợn của cuộc tàn sát, Diệu Nương bị vùi dưới núi xác chết chất trên sân nhà thờ. Hơn một ngày thở bằng hơi thở của các tử thi rồi cô mới được moi ra, trần truông, bê bết máu đặc. Và bởi chấn thương tinh thần do nỗi kinh hoàng đêm ấy mà Diệu Nương trở nên điên dại, người ta bảo thế. Lúc điên ngấm ngầm, lúc lấp lửng điên, lang thang, vật vờ, nửa mộng du, lúc bột phát quay cuồng, mất trí.
Từ đấy, mặc dù được giải phóng nhưng đời cô mai một. Bàn tay cô quá mềm, da quá mỏng không cầm rựa phát cây được, không nhấc nổi cuốc để cuốc đất, nên thân cô không được trui rèn, không tự cải tạo nổi bằng tăng gia sản xuất. Sắc đẹp của cô chỉ nhấn mạnh thêm lên vẻ lạc loài. Giọng hát của cô chẳng hữu ích cho ai trong thời buổi nghiệt ngã cam go, nay sống mai chết, nhọc nhằn và túng đói.
Tuy nhiên, ngày ngày,vào những ban mai và những hoàng hôn, bản năng xướng ca vẫn thúc bách Diệu Nương cất tiếng hát. Giọng ca tuyệt vời song thảng thốt như làn gió dại lướt xiên đồng cỏ trong ánh nhá nhem buồn thảm của mỗi ngày. Trong lời ca của Diệu Nương đau thắt nỗi nhớ quê nhà, nhớ đời nghệ sĩ, nhớ sàn diễn, nhớ khán giả, sắc đẹp và tuổi thanh xuân mà nay tất cả đã rời bỏ cô, đã xa lắc xa lơ ở bờ bên kia không thể vượt qua được của chiến tuyến.
"... nhưng ôi, chúng ta, chính chúng ta đây
một thời chúng ta cũng có
một quê hương và một mối tình... "
Ở làng Diêm bây giờ vẫn còn có người nhẩm lại được giai điệu và lời của bài hát buồn vô hạn ấy mà một buổi xế chiều xa xưa nọ Diệu Nương đã lần đầu hát lên. Chiều ấy, lúc xế tà, bộ đội dong tù binh qua làng. Hằng trăm lính áo rằn bị trói thành cặp, lầm lũi lê bước. Những lính áp giải đầu súng gắn lê, gay gắt, lạnh lùng lùa thúc đoàn tù đi mau qua khỏi khu vực dân cư.
Hai bên đường sau các ngưỡng cửa thấp lè tè lấp ló những khuôn mặt sợ sệt, bồn chồn. Dân làng mong tìm kiếm người thân trong đám tù binh nhưng chẳng ai dám mon men ra đứng ở vệ đường.
Chợt sau rặng cây phía cuối làng thấp thoáng bóng một người. Ấy là Diệu Nương, và giờ đấy, giờ tận chiều của mỗi ngày cũng là giờ xuất thần của cô.
Môi mấp máy, mắt nhìn chăm chăm, Diệu Nương rẽ đám cành lá, đi theo đoàn tù. Những người đàn ông lưng còng đang lê bước không để ý tới cô. Trong bóng chiều chạng vạng mặt mày họ tối om như mặt đất.
Bỗng người ta nghe thấy những âm thanh như tiêng ai khẽ nức nở. Diệu Nương lấy giọng yếu ớt và vấp váp hát lên một khúc ca hầu như chưa từng ai nghe thấy trên đời. Tiếng hát nhỏ, gai điệu u tối và không rõ lời.
Như nghẹn ngào, Diệu Nương ngừng lại lấy hơi rồi lại hát tiếp. Ở giữa khối tù một người chợt cất cao giọng. Rồi một người khác nối theo. Rồi nhiều người. Giọng hát của Diệu Nương như lướt một cái hôn dài trên môi tất cả. Đoàn tù biến thành dàn đồng ca. Những giọng đàn ông chung nhau một bè trầm át tiếng chân bước. Đội áp giải không bắt tù phải im miệng. Những ngọn lê chúc cả xuống.
Dân làng ra hết hai bên đường. Họ lặng lẽ đứng chôn chân nhìn theo đám rước đang khuất dần trong vầng bụi bốc lên trên con đường tù đày vô định xuyên qua thảo nguyên bát ngát. Bài ca của Diệu Nương và của những chiến binh xấu số vang lên trong thinh không lúc ấy đã tràn đầy bóng tối.
" Trong cuộc huynh đệ tương tàn
Chúng ta chỉ là con sâu cái kiến
Nhưng ôi, chúng ta, chính chúng ta đây
Một thời chúng ta cũng có
Một quê hương và một mối tình... "
***
Giờ đây, Diệu Nương đã chết. Trên đồng cỏ, giữa vô vàn gò đống, nấm đất nào là nấm đất của Diệu Nương, ai là người có thể chỉ ra được ?
Và cả nấm mồ của người bị bắn chết cùng cô nữa, thất lạc nơi đâu trong đất trong cỏ ?
Cuộc sống triền miên trôi chảy. Cuộc sống không hề có trí nhớ. Những lớp lá rụng, những lượt thời gian. Đất cát. Cỏ cây. Mùa mưa. Mùa khô. Năm này tấp lên năm khác.
Ngôi nhà thờ của làng Diêm cuối cùng rồi cũng bị máy bay triệt hạ. Cỏ dại chôn vùi các bức tường đổ, nuốt dần các bậc thềm. Sáng sáng tiếng quạ kêu trong thánh đường hoang tàn gợi người ta nhớ tới vị linh mục. Ông ta đã bỏ làng ra đi, chẳng ai biết là đi đâu...
Bên sông trận địa pháo cao xạ chỉ còn chơ vơ những công sự hình móng ngựa đã sụt lở. Đây đó vài hố bom đìa hoác miệng. Những hố bom bi, bom phạt quang và hố đạn pháo thì thời gian đã san bằng. Và cái lối nhỏ ngày xưa đính pháo đội với làng Diêm nay chỉ lờ mờ một vệt trăng trắng uốn lượn lẩn khuất dọc bờ sông um tùm lau lách. Lính tráng đi xa chắc vẫn chưa quên con đường mòn ấy. Trên lối ấy, hồi đó, ngày hai bận anh nuôi từ trong làng gùi cơm canh ra trận địa. Ban dêm, nhất là những đêm tối trời, cũng lối ấy lính các khẩu đội tụt tạt mò vào làng " dân vận ". Thoáng bóng cán bộ đại đội hay là tuần tra của du kích, những kẻ xé rào đi ăn sương lẳng lặng né ngang xuống mép sông, thu mình trong bãi lau. Văng vẳng tiếng cuốc kêu phía đầu làng. Hơi ẩm màn đêm ướt lạnh vai áo. Cầm lòng không đậu.
Hồi ấy, lệnh trên gần như cấm tiệt bộ đội không được tiếp xúc với đám dân còn chưa được giác ngộ, còn nửa ngụy của vùng mới giải phóng. Không có nhiệm vụ tuyệt đối không được láng cháng vào làng. Kiêng kỵ như vậy thật kỳ quặc, nhưng quân lệnh như sơn, lơ mơ bị bắt quả tang đang vi phạm thì tha hồ mà kiểm thảo lên kiểm thảo xuống, rồi kỷ luật đảng kỷ luật đoàn đủ vành đủ vẻ tai vạ chuốc vào thân. Mặc dù vậy, lính gần dân lửa gần rơm.
Dẫu không phải là tình cá nước, nhưng thời gian trôi qua quan hệ vụng trộm giữa các khẩu đội pháo với những túp lều nát trong làng đã thầm lén in lên mặt cỏ một lối mòn. Ban ngày, trừ tổ anh nuôi không ai lai vãng trên lối đi ấy, nhưng đêm xuống đó là đường ân tình. Có lẽ tới bây giờ trong mỗi túp lều còn có thể gom lại hàng mớ kỷ vật và ở trong lòng mỗi người dân thì còn vương nhièu kỷ niệm về các tay lính pháo thủ cao xạ Bắc Việt ngày ấy. Người ta bảo rằng trong quan hệ quân dân khuất tất hồi ấy đã lén lút sinh ra không ít niềm quyến luyến, gồm cả những mối tình, cho dù hầu hết chỉ thoảng qua, vội vã, chợt nhen chợt tắt, tù mù, chẳng dẫn tới gì, chẳng đi tới đâu, nhưng vẫn là tình.
Hồi ấy niềm ước ao hạng nhất của lính pháo thủ là được vào làm phụ bếp cho anh nuôi trưởng Cù. Cả đại đội chỉ mỗi Cù chốt hẳn trong làng, còn hai phụ bếp thì phải luân phiên, mỗi tháng thay một lần.
Chẳng hiểu là tới bây giờ hai cái lán nứa nền âm, một nhà kho, một nhà bếp, được cất lên ngay cạnh khuôn viên nhà thờ có còn dấu tích gì không . Hồi đó, Cù nhắm vuông đất bên nhà chung bởi anh hy vọng đấy là toạ độ tương đối ít phải ăn bom. Bất tiện là phải chung giếng nước với ông cha đạo nhưng Cù thích cái giếng ấy, nước của nó trong và ngọt nhất làng. Còn cha cố thì tiếng vậy chứ cũng là người. Mặc dù trẻ tuổi song ôngta rất nghiêm túc, vẻ lễ độ khoan hoà, ứng xử biết điều hơn bất kỳ ai trong đám chúng dân làng Diêm. Cù không ưa gì họ. Rặt một phường vô dụng. Sống giữa đồng cỏ, đất đai vô thiên song vì là thứ dân tứ chiếng, một hạng nông dân miễn cưỡng, họ không thiết làm lụng để có cái ăn mà chỉ toàn xoay xở đắp đổi qua ngày. Có lẽ bọn họ đã quá quen với viện trợ Mỹ, quá quen nằm ngửa ăn sẵn, nên giờ đây lòng họ chỉ canh cánh hoài tiếc thuở vàng son đi lính và làm đĩ cho Mỹ cho ngụy, Cù nghĩ. Có lẽ bọn họ đều ngấm ngầm một lòng với địch, ngấm ngầm ngóng đợi một thời cơ, sau cái vẻ bề ngoài nhẫn nhịn và cam chịu mà Cù thấy là đê tiện.
Và nhất là bọn đàn bà. Cù không hiểu nổi can cớ làm sao mà đồng đội của anh nhiều tay lại để cho chúng hớp hồn dẽ dàng như vậy. Cả đại đội, năm chục thằng, bao nhiêu năm tút hút trong rừng sâu với nhau chẳng thành vấn đề gì, nhưng vừa kéo nhau ra nơi trời đất quang quẻ, có sông, có làng, có thấp thoáng bóng đàn bà là có chuyện. Mà nào phải là người phụ nữ hiền thục, trung hậu , đảm đang nơi quê xa ngoài Bắc hay các chị em giàu truyền thống cách mạng trog vùng hậu cứ. Cả làng, Cù nghĩ, rặt một lũ vi trùng giống cái.
" Vi trùng giống cái truyền bệnh tiêm la, giang mai... ", chí ít thì đấy cũng là cái cách anh thường nói để răn đe các tay phụ bếp.
Không phải bất cứ gã nào ngoài trận địa Cù cũng nhận vào tổ anh nuôi. Những tay nom tốt mã, những tay bẻm mép, láu lỉnh, lắm tài vặt, dễ léng phéng là Cù gạt ngay. Có tay nom bề ngoài củ mỉ cù mì nhưng phụ bếp mới quá một ngày đã bị Cù tống khứ về với mâm pháo vì hoá ra là một thằng tẩm ngẩm tầm ngầm.
" Đã là thằng anh nuôi ngày ngày thường xuyên với gạo nước rau mắm của đơn vị - Cù bảo – thì hai bàn tay phải tinhkhiết, cấm đụng chạm tới những sự uế tạp, dơ dáy, nhất là cấm kỵ không có được vọc vào đàn bà. "
Dân làng cũng sợ Cù. Chẳng ai dám mon men tới gần giếng gần bếp của anh. Dẫu có bắt quen được với tay phụ bếp nào, muốn xin xỏ hay đổi chác gì thì cũng phải đợi lúc Cù gùi cơm ra trận địa mới hòng.
Ngày hai lần, tinh mơ và chiều tà, để một người coi nhà, còn Cù cùng một anh nuôi viên nữa mang bữa ăn ra cho các khẩu đội pháo. Con Ních, một con chó săn nòi Lào nhỏ vóc và nhanh nhẹn, thính mũi cực kỳ chạy mở đường. Họ đi trên đường14 một đoạn ngắn rồi rẽ xuống, lối đi lượn vòng vèo trong làng qua các tụp lều nghèo nàn bệ rạc tường đất mái tôn. Họ đi, người hơi đổ về phía trước,hai bàn tay vòng sau chắp lại đỡ lấy đáy gùi. Hai cái gùi to như hai cái thùng phuy, bọc bao tải,toả hơi nóng và mùi cơm chín tới, mùi thức ăn lính.
Bầy chó trong làng thoáng bóng con Ních, chạy dạt. Đói meo, chúng núp sau các đống đổ nát, nhìn ra mà không dám sủa. Chỉ có mấy thằng bé rách rưới bị mùi cơm canh nóng sốt quyết rũ là lẵng nhẵng bám theo hai cái gùi.
- Bác anh nuôi ơi, bác anh nuôi... – Chúng kêu lên khàn khàn như đàn quạ.
- Bọn ngụy con, cút xéo ! – Cù quát
Nhưng nếu có ông lỏi nào gan lỳ theo dược tới cuối làng thì Cù dừng bước, vẫy nó lại. Anh móc trong bị cói đeo bên hông ra một củ sắn nướng hoặc bắp ngô luộc,có hôm cả một con cá khô. Anh bảo :
- Đó, cho mày. Có vậy thôi. Cơm canh bộ đội có chó gì. Sắn cõng gạo. Tàu bay chấm muối riềng. ¥n cách mạng đời chúng mày được giải phóng, nhưng phải biết chịu khổ. Phải biết cuốc cày mà nuôi lấy nhau, về bảo mẹ chúng mày thế. Đừng có ưỡn ườn ra trên giường mà chờ sung. Cách mạng còn dài. Đến hết đời chúng tao. Hết cả đời chúng mày...
Nghe nói đến tận bây giờ người ta vẫn thấy con Ních đi và về trên con đường ấy. Nó lần ra bờ sông, ngửi hít những cái vỏ đạn 37 ly đã rỉ xanh, rồi leo lên một cái hầm pháo cao xạ ngập trong cỏ tranh, nó đờ đẫn ngó làn nước trôi. " Bác anh nuôi ơi, bác anh nuôi ! ", một trong những thằng bé hồi ấy giờ đã lớn quen miệng cất tiếng gọi khi trông thấy con chó già cô độc bị bỏ rơi đang đi trên đường thui thủi. Dường như thằng bé còn nom thấy đằng sau con chó hình bóng hai người lính cấp dưỡng đang cõng trên lưng hai chiếc gùi.
Con chó bị riết vào lối mòn xưa. Và bao giờ nó cũng qua làng vào thời điểm thấp nhất của mặt trời : khi ban mai, khi hoàng hôn. Không gì có thể làm xao nhãng cuộc mộng du ấy. Không ai dám đụng tới con vật đó.
- Chính là nó đã giết chết Diệu Nương.
Những người mang mang biết chuyện bảo thế. Nhưng những người không hề hay biết gì về tấn thảm kịch cũng sờ sợ con chó, họ mơ hồ cảm thấy trong cuộc dạo chơi buồn thảm nhịp nhàng, lặp đi lặp lại của nó một vẻ mù quáng và điên dại đặc biệt con người.
***
Lần ấy, đến hẹn, khẩu đội 3 và khẩu đội 4 cử người vào làm anh nuôi thay cho Binh khẩu đội 1 và Tuấn khẩu đội 2 đã hết phiên. Nhưng trái lệ thường, Cù chỉ thay Bình còn giữ lại Tuấn. " Thằng Tuấn thạo việc rồi, với lại nó rất chịu thương chịukhó, có thể kế cận cho tôi làm anh nuôi trưởng cũng được ", Cù giải thích thế với chỉ huy đại đội.
Tuấn vốn gốc gác bộ binh. Bị thương nặng,đáng lý được ra Bắc rồi nhưng nghe động viên thế nào đó đã tình nguyện ở lại chiến trường. Người ta không điều Tuấn về lại đơn vị cũ mà bổ sung sang tiểu đoàn cao xạ. Anh về đại đội tôi mới được nửa năm, giữ chân pháo thủ số 3 ở khẩu đội 2.
Vóc người anh cao, ốm yếu, võ vàng, cổ lộ hầu, một vệt sẹo dữ dội do đạn bắn thẳng cày chéo từ mang tai xuống cằm. Miệng anh vì thế méo đi, cho anh cái biệt danh là Tuấn " mếu ". Mặc dù là dân Kinh Bắc nhưng Tuấn lầm lỳ, nóí ít lạ lùng và nói miễn cưỡng. Giữa một đám pháo thủ luôn ăn to nói lớn, thích tán dóc đấu láo, Tuấn âm thầm nín thinh, chẳng góp chuyện, chẳng bật cười, chẳng bao giờ tức khí nổi xung. Tuyệt đối thờ ơ lãnh đạm. Một nhà quí tộc hay một gã chán đời ?
Tuấn dửng dưng với những cú bổ nhào trực tiếp lao cắm mặt xuống cắt bom của máy bay cường kích. Bom nổ xa, nổ gần, rốckét nã trúng bờ công sự, Tuấn kệ. Song cái thứ tính khí lạnh nhạt, bàng quan với tất thảy ấy lại có vẻ hết sức thích hợp để làm pháo thủ số 3. Giữa cuộc hỗn chiến đất đối không, số 3 chân chính là người không hề để mắt tới máy bay, tới bom, tới đường đạn bắn lên trúng hay trượt, mà hoàn toàn ung dung tự tại, anh ta chỉ một nhiệm vụ là điềm nhiên bình thản quay tay quay điều chỉnh cự ly bắn đón cho pháo theo nhịp đếm của trắc thủ đo xa.
- Đánh nhau kiểu cao xạ sao mà tẻ - Có lần Tuấn ra lời bình phẩm như thế với tôi - Đánh trận mà như là đánh máy chữ. Chẳng có kịch tính gì, khác xa bộ binh.
- Tại cậu đứng mãi số 3 nên thấy thế đấy - Tôi bảo – Nếu muốn thì đề nghị khẩu đội trưởng cho hoán vị, tớ đứng số 3, cậu ngồi ghế số 2 của tớ mà dận cò.
- À không. Là nói thế. Chứ bảo mình thế nào thì mình thế nấy. Chả xin gì chả ước gì. Thế tuốt !
- Chán đánh nhau sao không ra Bắc, lại ở lại ?
Tuấn nhún vai.
- Hay thất tình ? Chắc hay tin vợ ở nhà ngủ với dân quân chứ gì ?
Tuấn " à " một tiếng rồi lại ngậm tăm. Miệng méo xệch.
Thực ra Tuấn vợ con chưa, ai mà biết. Cả chính trị viên cũng không nắm được gì nhièu về Tuấn ngoài mấy dòng trong lý lịch quân nhân. Tuấn chẳng tâm tình, chẳng thiết thổ lộ. Chẳng bao giờ tháy anh viết thư hay được thư. Họp hành, anh ngồi im. Cùng lắm là ậm ừ.
Ngoài cái nết kín bưng nổi bật ấy, Tuấn có nét nổi bật nữa là tài chơi đàn. Khác với lối chơi ghi ta thường thấy của lính, Tuấn không vừa đàn vừa dậm chân rung đùi, không lúc lắc vai, không vừa đàn vừa huýt sáo hay là ư ử trong họng, anh đàn một cách thẫn thờ, chẳng phải để cho ai nghe, cũng chẳng phải cho mình.
Cậu chơi bài gì nghe lạ vậy Tuấn ?
Tuấn lại chỉ " à " khẽ một tiếng.
Vào làm anh nuôi, Tuấn cũng xách ghi ta theo. Một cây đàn cũ kỹ, thùng đàn xây xát, nhưng mà tiếng rất tốt. Nghe nói Tuấn đã tha theo cây đàn này vào bộ đội và mọi người đều lấy làm lạ không hiểu bằng cách nào mà anh vẫn giữ được nó qua bao nhiêu là chặng của đời lính.
Vào làng buổi sáng, chiều Tuấn đã cùng Cù đưa cơm ra trận địa. Gùi canh môn thục tổ bố bốc khói trên lưng.
- Vất vả không Tuấn ?
- Cũng vất
- Bọn đàn bà làng Diêm thế nào, giàu kịch tính không ?
- À
Tuấn hờ hững. Bảo ở pháo thì ở, bảo vào làm anh nuôi thì vào, anh chẳng sốt sắng cũng chẳng thoái thác. Im lìm nguội lạnh, chẳng nói chẳng rằng, song anh làm việc hết mình, không hề nề hà ngại khó, chẳng bao giờ kêu ca.
Lúc đầu Cù không thích Tuấn, anh bực với cái lối âm thầm ngậm tăm ấy, nhưng rồi cũng đâm quen. Trầm tính không phải là một cái phốt, vả lại làm anh nuôi thì cả ngày đầu tắt mặt tối, túi bụi, tất bật, luon chân luôn tay còn đâu thời gian hở ra mà chuyện vãn.
Chỉ có một khoảng ngắn ngủi về khuya, khi một ngày cơm nước cho đơn vị đã chu toàn, ba chàng cấp dưỡng mới được tắm táp, nghỉ ngơi, tranh thủ trao đổi với nhau đôi lời trước khi mệt nhọc rũ người xuống võng. Cù lôi rượu ra. Mỗi thằng nhấp một chén và nghe Cù cắt cử phần việc phải làm ngày mai. Hôm nào được chút thảnh thơi, Cù và Bình đánh bài, còn Tuấn thì gỡ cây đàn treo trên vách xuống, chầm chậm so dây rồi nhè nhẹ phác một giai điệu.
Bấy giờ, khoảng đầu tháng Năm ta, đêm thường mưa. Ngoài sông A Rang nước lên, con lũ chuyển mùa ầm vang đồng cỏ. Trên mây sấm lăn rền rền.
Bình huýt sáo nhịp theo khúc nhạc. Cù buông bài, quay sang lặng lẽ nghe Tuấn đàn. Âm điệu quá quen thuộc mỗi sáng mỗi chiều. " Ta rong chơi giữa đời biết đâu nguồn cội ".
Ngoài trời miên man mưa, không khí trong lán ẩm ướt. Quầng sáng đèn dầu vàng ủng. Đời lính buồn rầu hiu hắt. Như tiếng thở dài.
***
Bếp anh nuôi của pháo đội cao xạ và căn nhà của linh mục nhìn sang nhau qua một vườn rau. Hai bên dùng chung cái giếng xây và cùng đi một lối để vào làng.
Nhà của linh mục cũng nền âm, lại thêm bốn ụ đất chống mảnh bom bao quanh nên từa tựa một cái hang. Trong tu phòng chẳng có đồ đạc gì. Một chiếc chõng tre với nệm rơm và gối gỗ, một cái kệ để sách và ảnh thánh. Bên ngoài cửa ra vào treo một cái giá, hàng sáng con chiên trong làng đưa cơm tới để lên giá đó cho linh mục. Mỗi ngày ông ra khỏi tu phong đôi ba lần và hầu như chưa hề đi đâu vượt ra ngoài khuôn viên nhà thờ. ông sống thu mình kín đáo trong vòng chí thánh.
Bỗng dưng ông rời bỏ nhà thờ, rời bỏ làng Diêm, lặn mất tăm. Ngày ông biệt tích trúng với ngày Diệu Nương bị giết. Lập tức sinh ra những lời đồn thổi. Tất nhiên chẳng có bằng cớ gì. Có điều từ đấy trong hầu hết các câu chuyện và các giả thiết về đời Diệu Nương người ta đều thấy thấp thoáng bóng cái áo chùng thâm.
Bản thân linh mục cũng là một số phận xui xẻo. Tai hoạ đến với ông cũng bất ngờ, na ná tai hoạ dành cho Diệu Nương. Nhằm đúng hôm ông lĩnh mệnh bề trên về nhà thờ làng Diêm cai quản xứ đạo thì Việt Cộng đùng đùng đánh lớn. Chiếc xe đò đưa ông từ thị xã về làng chưa kịp vào bến đỗ đã nghe súng nổ ran dọc bờ A Rang. Pháo 130 ly cấp tập nã và xe tăng T54 xuất hiện thình lình trên đường 14 tàn nhẫn cắt lối chạy lui. Hành khách đổ xuống xe xô nhau chạy và đám đông con chiên đang tề tựu để mừng đón cha xứ cũng lâp tức nháo nhào tan tác.
Người ta bảo rằng đúng vào cái đêm khủng khiếp, đêm bọn Mỹ dập pháo và dội bom xuống biển người di tản, tình cờ Diệu Nương nằm kề bên linh mục. Chính ông đã moi cô ta ra khỏi núi xác chết. Và mặc dù khi ấy Diệu Nương chỉ còn là một cái xác loã lồ, bê bết máu me, ông đã làm cô hồi tỉnh, đã cứu sống cô. Ông cưu mang cô từ đấy.
Diệu Nương sống nhiều tháng trong nhà thờ, kề cận cha xứ, y như thể cô là một ma-xơ hay là một người bõ, một người bõ đàn bà. Sống như thế tất nhiên là trái lẽ song giữa hỗn mang đại loạn của thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng điều răn nào là còn hiệu lực, chẳng lề luật nào mà không bị nới lỏng.
Về sau, khi đã bỏ ra sống ở túp lều ngoài rìa làng,Diệu Nương vẫn thường lẻn về nhà thờ với cha. Để xưng tội, chắc thế nếu cô là giáo dân, và tiếp tế cho cha bằng những tặng phẩm mà hàng đêm người này người khác vẫn lén lút đưa tới dấm dúi biếu xén cô. Êy là những thức họ san sẻ ra từ khẩu phần lính mỗi ngày, hoặc là những đồ nhu yếu họ quơ được khi thu chiến lợi phẩm. Diệu Nương nhận quà cáp và ngủ với tất cả, khi thì ở trong lều, khi ở ngoài bờ sông trên bãi cỏ dưới trăng mờ.
Cô là đồ đĩ rạc, song từ bao giờ cô đâm ra thế, cô không nhớ mà mọi người cũng vậy, không nhớ không biết. Không lẽ từ ngày được giải phóng, được đổi đời, cô trở thành đồi bại ?
Rất có thể bản tính Diệu Nương hư hỏng sẵn rồi. Chẳng vậy mà thiên hạ đồn cô gốc gác " thiên nga " ? Ngủ với cô rồi, giữa hai chầu rượu nhiều kẻ kháo nhau về cô, bảo cô là cái ổ của những tật bệnh xấu xa.
Riêng tôi, mà có lẽ chẳng riêng tôi, không coi nết lang chạ của Diệu Nương là hư đốn hay đồi bại gì sất. Đến với Diệu Nương tôi đã được hưởng những phút chưa từng được hưởng bao giờ ở quê nhà ngoài kia.
Nhiều năm qua rồi mà tôi vẫn không muốn quên và thực ra thì cũng không thể nào quên nổi. Bần thần, ký ức tôi mơ màng mộng tưởng ra trước mắt hình bóng của Diệu Nương, khi Diệu Nương một mình đi trên đường vắng, giáng đi mềm mại uyển chuyển đung đưa toàn thân, hay khi cô thẫn thờ ngồi lặng bên sông, hay là khi...
Những khi ấy, trái tim rộn ràng kinh hãi,tôi từ ngoài đêm rẽ manh chiếu Diệu Nương dùng thay mành cửa, bước vào trong lều tối đen.
- Lại đây, anh lính của em. Đừng sợ. Chỉ có mình em trong này thôi.
Tôi bước tới một bước và bất ngờ chạm vào một cái gì đó tuyệt vời, một cái gì đó nóng hổi, mềm mại, dập dờn, một cái gì đó không thể diễn tả. Và ngay lập tức tôi bị du vào một địa ngục ngọt ngào.
- Bạn tình của em, anh tên là gì ? Có phải lần đầu anh tới với em không ?
Tấm thân óng ả của Diệu Nương mà đời sống cơ cực vùng giải phóng chưa kịp huỷ hoại đượm một vẻ gì thật quá đỗi đàn bà, đàn bà hơn tất cả những người đàn bà khác nhập lại. Không chỉ những cái vuốt ve của cô, không chỉ có những lúc cô xuất thần thác loạn, tận lực nồng nàn âu yếm, cô rên rỉ, cô giở trò, cô im lặng hổn hển mà cả khi đã nguội đi, mệt nhoài bải hoải, ở cô vẫn dào dạt ma lực của tội lỗi đàn bà.
- Anh đã đi à, đã đi rồi sao ? – Cô níu tay tôi – Còn lâu mới sáng. Hãy nán lại một lát đã anh. Em còn muốn ngỏ với anh điều này. Chỉ một điều này thôi...
Nhưng không mấy ai chịu nán lại. Càng không ai muốn nghe cái điều duy nhất mà Diệu Nương mong được thổ lộ với người bạn tình thoảng chốc. Không ai muốn nghe bởi không ai có thể làm gì cho điều mong ước ấy của cô. Nó quá tội lỗi, quá đáng sợ, lại hão huyền. Có lẽ Diệu Nương tưởng đâu rằng trên đời này vẫn còn sẵn lắm những kẻ điên rồ dám vì tình mà liều mạng và vì tình mà cả gan làm phản.
Nhưng để lần sau lại có thể dến với Diệu Nương, nói chung chẳng ai dại gì làm cô mất hy vọng, người ta cứ hứa, hứa đại. Lời hứa gió bay.
Bởi vì ai cũng vậy cả nên chẳng ai ngờ rằng ấy thế mà vẫn có kẻ giữ chữ tín với Diệu Nương. Y hứa sẽ giúp cô và y đã y lời.
***
Về sau, khi sự đã rồi, mới nghe nhiều người bảo rằng thực ra trước đây khi còn ở bộ binh Tuấn đã có nhiều dịp ghé làng Diêm và vì thế đã quen Diệu Nương từ hồi ấy. Hồi ấy cánh cao xạ chúng tôi chưa về lập trận địa ở bờ sông A Rang và Diệu Nương hồi âý vẫn đang dung thân dưới mái nhà của vị linh mục.
Người ta kể rằng làng Diêm dạo đó đói dài. Một chút ít lương thực được bộ đội cứu trợ cho hồi mới giải phóng đã cạn. Chính quyền cách mạng ra lệnh tăng gia tự túc. Cả nhà thờ cũng phải tự liệu lấy kế sinh nhai.
Bởi vì một vị linh mục thì không đời nào lại chịu phận cày cuốc, Diệu Nương phải lo làm lụng cho cả hai. Cô theo những người đàn bà trong làng đi phát nương trồng sắn. Nhưng không quen nhọc nhằn, cầm rựa chặt được một nhát là lại một lát cô cám cảnh ngồi ôm mặt sụt sùi. Gần trọn một ngày mà đám nương của cô vẫn y nguyên cây cối lùm bụi.
Bấy giờ có một tốp mấy người lính dừng chân mắc võng nghỉ ở ven sông và họ đã chứng kiến cảnh ngộ của Diệu Nương. Thoạt đầu họ cười nhạo, chế giễu và thương hại thay cho cái giống đàn bà gốc ngụy chẳng khác chi người giấy, quen thói lười nhác, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, bây giờ đây mới được biết thế nào là mồ hôi nước mắt một kiếp người. Nhưng dần dần tình cảnh khổ sở của Diệu Nương nhói vào lòng những người lính nỗi thương cảm. Họ rời võng, đi tới bên cô, họ an ủi và đề nghị được ra tay giup đỡ cô.
Và vậy là từ đầu tối tới cuối đêm, mấy chàng bộ đội xoay trần đốn cây cho nhà chung. Họ phát quang cả một vạt rừng. Lúc từ giã , một người trong tốp bộ đội xưng tên là Tuấn. Anh hứa dăm hôm nữa sẽ trở lại giúp Diệu Nương đốt rẫy. Và anh đã giữ lời.
Rẫy của Diệu Nương được đốt gọn và sạch nhất làng, cháy đều, khốngót một thân cây nào cháy dở dang. Chia tay, Tuấn lại hẹn ngày về cùng Diệu Nương vùi hom sắn.
Cơn mưa đầu mùa, sắn lên xanh non và chẳng bao ngày mà lá sắn đã phủ kín rẫy. Quanh rẫy, Tuấn gieo thêm hạt bầu và trên vạt đất phía sau nhà thờ Tuấn giúp Diệu Nương mở một vườn rau.
Và cứ vậy, không hiểu xoay xở cách nào, cách năm ngày, cách mười ngày, từ chốt vùng ranh ven thị xã, Tuấn băng đồng cỏ về làng thăm Diệu Nương.
Cũng thờigian ấy Diệu Nương rời nhà thờ ra ở túp lều mà Tuấn đã dựng cho cô nơi rìa làng. Hình như nhờ có Tuấn, Diệu Nương đã mất đi cái vẻ não nùng của những ngày mới được giải phóng. Người ta thấy ánh mắt cô long lanh và đôi khi người ta thấy cô mỉm cười.
Có những lần, từ chốt Tuấn lẻn về với Diệu Nương mang theo cả cây ghi ta. Anh đàn khẽ cho Diệu Nương thầm thì hát. Hồi âý cô chỉ hát nho nhỏ thế thôi, nồng nàn, giữa hai người với nhau.
Chắc là giữa hai người đã có sự thề bồi. Chắc là Diệu Nương đã thổ lộ điều ước nguyện da diết nhất của cô. Cô ước được thoát kiếp sống càycuốc cực khổ ở chốn gian lao xa lạ này, cô ước được người đáng tin đưa mình vượt qua chiến tuyến trở về với quãng đời êm ấm thân thuộc trước ngày được giải phóng.
Với Tuấn, vượt hơn mười cây số với những bãi mìn, những điểm chốt chặn không phải là điều không thể. Thêm nữa, ấy là những ngày mở đầu Thời Hiệp định, những ngày bỗng dưng đất trời yên lặng. Mùa khô mà vắng bặt tiếng máy bay và tuyệt nhiên không một phát đại bác.
Say đắm ái tình và bốc đồng hy vọng thái bình, Tuấn đã hứa hẹn. Hứa thật lòng, có lẽ. Chỉ có điều là bỗng nhiên anh biến mất. Năm ngày, rồi hàng tháng trời trôi qua, biệt âm vô tín, Tuấn không trở lại làng Diêm.
Từ đó, lặng lẽ Diệu Nương trở nên ngẩn ngơ và âm thầm cô trở thành sa đoạ. Cô chẳng hề nói gì với ai về Tuấn. Hình ảnh của anh và lời hứa của anh có lẽ đã tàn trong tâm trí cô. Duy có khát vọng tự do thì vẫn sống, vẫn lay lắt. Niềm ao ước cô từng thổ lộ với Tuấn biến thành tiếng hát cất lên dài dại mỗi sáng mỗi chiều. Và đêm đêm Diệu Nương vẫn tìm kiếm những hứa hẹn viển vông, mỗi ngày một viển vông hơn theo đà chiến sự càng ngày càng tàn bạo. Bom đạn tơi bời tàn phá làng Diêm, phũ phàng quét sạch mọi manh nha của hoà bình.
Cho tới một đêm nọ, một đêm mưa, trên đường mò vào nhà thờ với ông cha cố, khi đi tắt qua vườn rau gần lán của những người lính anh nuôi, Diệu Nương chợt nghe thấy văng vẳng tiếng đàn. Lẳng lặng cô đi gần tới, ghé nhìn qua các bụi cây. Đèn dầu lập lờ mờ tối. Diệu Nương không trông thấy người đang đàn, nhưng điệu đàn quen thuộc của những đêm xưa giúp cô nhận ra người ấy.
Thất thần, vô tri giác, Diệu Nương từ từ bước tới cửa lán. Bất ngờ, con Ních từ góc lán chồm lên, sua vang.
- Ai ? Cù vùng khỏi võng, chộp lấy súng, hét.
Diệu Nương lùi lại một bước, và khi tiếng đàn trong lán vụt tắt, cô xoay người chạy.
Cù lao ra cửa. Mưa đổ ào ào trước mặt anh.
- Thám báo ! – Cù quát - Đứng lại !
Dưới một nhoàng chớp bóng Diệu Nương hiện thoáng lên, rũ rươị, xiêu đảo.
- A ! Con đĩ ! Đứng lại, tao thì giết !
Cù gầm lên, phóng mình ra mưa va trượt chân, anh ngã sấp. Nhổm phắt dậy, điên tiết, Cù nâng súng quạt cả một tràng theo tiếng chân đang chạy chấp chới phía trước. Tuấn xô tới, giật súng.
- Thằng ngu xuẩn ! Đồ nông nô !
Tuấn gào, khản đặc, và mê muội đấm vào mặt anh nuôi trưởng. Anh quăng khẩu AK xuống vũng bùn cạnh Cù rồi lao mình vào mưa đêm đen đặc đuổi theo Diệu Nương. Khắp làng ran lên kẻng báo động. Du kích từ nhiều ngả ập tới.
Bình vựa Cù vào lán.
- Bọn du kích tới, mày bảo là không có chuyện gì nhá - Cù lấy ống tay áo lau khuôn mặt ròng ròng nước mưa và máu, nhổ cái răng cửa bị gảya và khó nhọc bảo với Bình - Nói với chúng là tao mê hoảng bắn bừa... Rồi mày đi tìm xem hai đứa chúng nó ra sao rồi...
Anh thở dài :
- Mà tại sao con đó nó lại vùng chạy cơ chứ, hả ?
Rất lâu sau này, kể lại chuyện đêm ấy, Bình ngậm ngùi bảo với tôi :
- Giá kể con đó nó không dính đạn, hai đứa chúng dắt nhau trốn đi ngay trong đêm ấy thì không chừng đã thoát được rồi cũng nên.
Giờ đây ngẫm lại, tôi thấy trong toàn bộ tấn thảm kịch xảy ra hồi đó Cù là nhân vật không tài nào ai hiểu nổi. Chính anh đã cố tình xả súng bắn Diệu Nương, lại cũng chính anh suốt một thời gian dài đã giúp vào việc chăm sóc cô. Cha xứ chỉ chịu hé cửa tu phòng cho một mình Cù. Bông băng, thuốc men, đồ ăn, ông chỉ nhận nếu là do Cù đưa sang. Tuấn bị ông cấm cửa.
Cù và Bình không hé răng hở chuyện. Toàn đại đội không ai biết Cù đã bắn bị thương Diệu Nương. Cũng không người nào hay có vụ xô xát giữa Cù và Tuấn. Càng chẳng ai ngờ có mối tình nung nấu mà mơ hồ giữa Diệu Nương và Tuấn.
Đến kỳ thay phụ bếp, Cù xin đại đội cho tổ anh nuôi được giữ Tuấn lại.
***
Bỗng nhiên, Diệu Nương biến mất. Không nghe thấy tiếng hát của cô nữa. Túp lều ở rìa làng bỏ chơ vơ, trống huyếch, xiêu mọp, ngập cỏ. Người ta đồn rằng cô đã bỏ trốn. Hoặc đã chết. Chết đuối, trôi mất xác. Cũng có thể là chết tan xác vì trúng phải một trái bom, trái pháo giáng trực tiếp xuống đầu.
Mùa mưa năm ấy dài đằng đẵng, buồn ê ẩm. Dần dần tôi thầm hiểu tôi buồn vì nuối tiếc Diệu Nương. Mà không riêng tôi, cả đại đội đều rầu rĩ. Dường như, mất bóng Diệu Nương thì chúng tôi chẳng còn lý do gì để bám lại trên mảnh đất này.
Đột nhiên vào ngày nắng hửng đầu mùa khô, chúng tôi hay tin Diệu Nương vẫn còn sống. Suốt mùa mưa cô ẩn trong nhà thờ để chữa trị vết thương. Nay cô đã gần khỏi. Chỉ có điều nay cô mới thực sự đã bỏ trốn.
Người thông báo cho chúng tôi tin đó chính là ông linh mục. ông ta lần ra trận địa pháo vào lúc tảng sáng, cái áo chùng ướt đầm sương.
- Người của các ông đã cám dỗ cô ta. Cái tên mặt sẹo, dáng vẻ lầm lỳ ấy. Hắn đã bội phản các ông, lại kéo cô ta phản Chúa.
Ông còn cho biết ông đã báo cho Cù ngay khi phát hiện Diệu Nương trốn đi với Tuấn, nghĩa là ngay từ nửa đêm. Vậy mà Cù đã không hề báo cáo gì cho đại đội.
Anh ta đứng đấy, đầu trần, răng nghiến lại nghe chính trị viên xỉ vả.
- Theo tôi, để cho họ đi ! - Cù nói, sa sầm - Còn nếu nhất định phải bắt lại thì chẳng khó. Vết thương cô ta chưa lành hẳn, không thể đi nhanh. Với lại, có con Ních...
Tôi có vinh dự tham gia nhóm tác chiến cùng Cù và hai trinh sát viên. Chúng tôi khẩn trương xuất kích. Con Ních thoăn thoắt chạy dẫn đường, kéo căng sợi dây da trong tay Cù.
Chúng tôi lặng lẽ rảo theo. Hàng dọc, súng lăm lăm. Lệnh trên là kiên quyết không để chúng trốn thoát mang theo bí mật về cuộc hành quân sắp tới của đơn vị.
Chỉ lạ là không hiểu sao dấu vết con Ních dò theo không nhằm về thị xã mà cứ men mãi bờ sông A Rang, ngược lên mé tây đồng cỏ. Phía đó chỉ có rừng rậm.
ý chí đuối dần. Chúng tôi lết đi chậm chạp. Bụi bốc lên dưới chân. Nhiều giờ trôi qua. Con Ních vẫn cần mẫn lần theo dấu vết vô hình lượn ngoằn ngoèo.
Chính vào lúc chúng tôi đã nản, tính chuyện quay về thì hình tích của hai kẻ trốn chạy đã thực sự hiện ra.
Dưới tán một cây kơ-nia mọc đơn độc giữa trảng cỏ tranh, Tuấn và Diệu Nương đã nghỉ chân. Đàn kiến đang tha đi những vụn cơm. Một mẩu thuốc rê vấn bằng giấy báo. Nhưng đặc biệt rõ ràng, hằn trên cỏ, như thể cỏ đã tạc nên thân hình người đang nằm. Một bức hoạ khắc nổi dáng vóc đàn bà, không thể nhầm được...
Chúng tôi đuổi kịp họ trước lúc mặt trời lặn. đã chớm tới vạt rừng đầu tiên ở bờ tây đồng cỏ.
Mệt nhoài, chúng tôi dừng lại trước một dòng suối lớn. Con Ních bị dòng nước xoá dấu vết. Chúng tôi ngồi xuống nghỉ. Im lặng đè nặng lên buổi hoàng hôn màu hồng thẫm.
Thốt nhiên, giữa sự im ắng và tiếng rì rầm của dòng suối, lướt nhanh qua không gian một âm thanh bất ngờ giống như một gợn sóng mỏng.
- Tiếng đàn ! – Cù khẽ thốt lên.
Chúng tôi sững sờ, lắng nghe, hồ nghi. Đã tưởng chỉ là một cảm giác sai lạc, không dè sau một lúc nín thở chờ đợi, chúng tôi nghe thấy khe khẽ tiếng hát.
Lội mau qua suối, chúng tôi nhẹ chân tiến tới. đấy là một dải rừng thông. Những cây thông cao vút, mọc cách thưa. Một tà khói mỏng bốc lên trong chiều. Chúng tôi khom rạp xuống, áp sát.
Một tiếng cành khô gãy dưới chân. Tiếng hát tắt lặng.
Tôi đứng thẳng lên sau một thân cây và căng mắt quan sát. Một cái bếp nhỏ với chiếc hăng-gô treo đung đưa trên lửa. Một chiếc võng dù căng giữa hai cây thông.
Im lặng kéo dài, kéo dài mãi. Tôi gạt chốt AK vào nấc liên thanh.
- Các bạn... Anh em ơi... – Giọng Tuấn - Chúng tôi chẳng làm hại gì cả... Không chống lại ai... Hãy để chúng tôi đi ...
- Câm mồm ! – Bào, trinh sát viên hét - Đứng dậy ! Giơ cao hai tay. Bước ra !
Một phút. Nhiều phút. Vẫn lặng phắc. Cù buông sợi dây da. Tôi thấy con Ních chạy xéo qua, và lát sau tôi nghe tiếng nó sủa ở bụi cây. Tiếng sủa rối rít, mừng rỡ.
Nhưng cũng đúng lúc đó, bụi cây lay động.
" Trong cuộc huynh đệ tương tàn... " - Tiếng hát.
- Đồ điên ! – Cạnh tôi, ai đó gầm lên - Con đĩ ! Này thì tương tàn !
Và tức thì súng nổ. Một khẩu nhả đạn kéo theo những khẩu khác cùng khạc lửa. Chớp đầu nòng nhằng nhằng xé rách lượt bóng tối đầu tiên đang phủ xuống khu rừng.
Bốn khẩu AK cùng bắn hết băng, cùng câm bặt. Bốn chúng tôi cùng lao vọt lên, cùng chết sững.
Sau bụi cây bị đạn băm, hai con người âý quấn lấy nhau. Những vết đạn như càng vặn xiết hai cơ thể vào nhau. Vào chớp mắt cuối cùng, người đàn ông dường như đã cố dùng thân mình đỡ đạncho người đàn bà. Nhưng đạn khoan qua người họ. ¸nh lửa từ bếp lấp loáng trên hai mảng lưng trần.
Chúng tôi đứng chết trân. Màn đêm vây dần lại. Cả bốn chúng tôi như bị trói vào nhau trong sự cam chịu một cái gì vô hình vô tận đang đổ xuống. Mùi thuốc đạn là dấu vết duy nhất của ý chí điên khùng, đã tan đi.
- Ê... ê ... Ních ! Ê... - Cù tru lên gọi con chó đã bị trận mưa đạn xua dạt vào rừng sâu.
Ngồi xuống bên Tuấn và Diệu Nương, tôi gỡ họ ra khỏi nhau.
***
Hai hôm sau chúng tôi nhận lệnh hành quân về phương Nam. Vĩnh viễn giã từ làng Diêm. Tôi đã bình tĩnh trở lại. Cả Cù cũng vậy. Cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước sẽ là lối thoát cho tâm hồn chúng tôi. Chúng tôi sẽ chiến đấu và sẽ quên.
Mùa khô nung vàng đồng cỏ. Và những ngọn gió dại gào hú làm bốc lên những cột lốc đỏ lòm. Những ngọn gió điên rồ như có móng vuốt, cào xé mặt đất.
Chúng tôi chỉ không ngờ rằng chúng tôi đang tiến vào mùa khô cuối cùng của cuộc chiến. Chúng tôi đã bắn chết những người báo trước hoà bình, vậy mà hoà bình vẫn đến.
PS: C2L nhí nhoáy một tí, đọc khoái không thể tả. Hummm
http://nhilinhblog.blogspot.com/
29.4.09
TRONG THINH LẶNG ĐÓ, CẬN KỀ...
"Lộn số nhưng nói chuyện một chút được không anh? Lâu rồi không nghe người Việt Nam nói chuyện"...
Và tôi đang xót xa...
“Quê hương tôi không ở bên kia, cũng không phải ở đây, mà ở đâu đó giữa hai nơi. Tôi rời VN quá sớm để có những kỷ niệm êm đềm với VN... Tôi không có nơi để trở về. Tôi không có nhiều gốc rễ ở bên kia, tôi cũng không có gì ở bên đây. Những người rời xa quê hương quá sớm đều không có nơi để trở về.”
“vẫn cố gắng hòa nhập vào một quê hương mới mênh mông, với một tay bám theo tương lai xa cội nguồn và một tay nắm giữ những quá khứ chưa muốn dứt lìa. Hai dòng sống vẫn trôi nhanh, cách biệt, bất kể những bất hạnh, bất lực, những đắng cay và tiếng cười đứng bên cuộc đời. Tôi không thể cưỡng lại dòng sống ở bên đây, và tôi cũng không thể trở về dòng đời bên đó.”
Và tôi đang nghĩ về...
Đêm qua em không ngủ được!
PS: Giữa hai miền mưa nắng ( HMĐ )
Và tôi đang xót xa...
“Quê hương tôi không ở bên kia, cũng không phải ở đây, mà ở đâu đó giữa hai nơi. Tôi rời VN quá sớm để có những kỷ niệm êm đềm với VN... Tôi không có nơi để trở về. Tôi không có nhiều gốc rễ ở bên kia, tôi cũng không có gì ở bên đây. Những người rời xa quê hương quá sớm đều không có nơi để trở về.”
“vẫn cố gắng hòa nhập vào một quê hương mới mênh mông, với một tay bám theo tương lai xa cội nguồn và một tay nắm giữ những quá khứ chưa muốn dứt lìa. Hai dòng sống vẫn trôi nhanh, cách biệt, bất kể những bất hạnh, bất lực, những đắng cay và tiếng cười đứng bên cuộc đời. Tôi không thể cưỡng lại dòng sống ở bên đây, và tôi cũng không thể trở về dòng đời bên đó.”
Và tôi đang nghĩ về...
Đêm qua em không ngủ được!
PS: Giữa hai miền mưa nắng ( HMĐ )
26.4.09
14.4.09
14.04 SAWADEKA
And when this dust falls to the urn,
In that state I came, return.
Và khi tro bụi rơi về,
Trong thinh lặng đó, cận kề quê hương.
Henry Vaughan 1622 – 1695 (The Retreat)
Tôi không biết tại sao tôi đọc nó vào ngày hôm nay mà không phải vào thời điểm mà tôi được nghe về nó. Chính xác là mất 150' để đọc lom lom trên màn hình.
Sự thật - ngọt ngào là thứ sa sỉ. Sự thật - có chăng là thứ mà ta muốn nó là như thế. Buồn cười!
Chỉ thấy trống! Muốn im!
Và khi tro bụi rơi về,
Và khi tro bụi rơi về,
Và khi tro bụi rơi về,
Và khi tro bụi rơi về,
...
Trong thinh lặng đó, cận kề quê hương.
PS : http://doanminhphuong.blogspot.com/search/label/v%C3%A0%20khi%20tro%20b%E1%BB...
OKURIBITO - DEPARTURES - KHỞI HÀNH
Đạo diễn: Yojiro Takita
Diễn viên: Masahiro Motoki, Tsutomu Yamazaki, Ryoko Hirosue, Kazuko Yoshiyuki
Quốc gia : Nhật Bản
Năm sx: 2008
Thời lượng: 130'
Giải thưởng : 1 giải Oscar, 29 giải và 4 đề cử khác
Để tôi kể bạn nghe về những con người và tất nhiên, công việc của họ nữa. Một công việc mà chỉ sau 2 tuần đã khiến một người đàn ông trưởng thành có thể nói :"Những ngày tháng trước đây của tôi tại Tokyo quả thật vô vị"
Daigo Kobayashi là một cậu bé lớn lên ở vùng quê Nhật Bản. Cha anh có một quán cafe nhỏ. Năm anh 6 tuổi, cha bỏ đi theo một người phụ nữ. Bỏ lại vợ và 1 cậu con trai với những kỷ niệm. Kỷ niệm của những chuỗi ngày cha thường bắt anh chơi cello cần mẫn và câu chuyện "thư đá".
Hãy bắt đầu bằng hiện tại. Anh luôn nhận ra anh chỉ là một tay chơi nhạc tận tâm, còn khả năng thì theo đánh giá là không có mấy tương lai. Rồi dàn nhạc tan rã. Anh cùng cây cello 180.000 yên đang trở thành gánh nặng cho một gia đình nhỏ. Và vì thế, 2 vợ chồng đã quyết định quay lại vùng quê nơi anh sinh ra. Nơi căn nhà mà mẹ anh để lại.
Với áp lực như vậy, anh đi tìm việc. Và công việc mới là người giúp việc khởi hành. Nghe có vẻ rất giống nhân viên ngành du lịch. Nhưng là một nhân viên cho chuyến đi đời người.
Ở đây người xem sẽ được quan sát công việc của những người khâm liệm. Bạn sẽ hiểu tại sao văn hóa của xứ sở Phù Tang lại luôn được đề cao đến vậy. Nghệ thuật Nokanshi, hành xử của người gác cổng giữa sự sống và cái chết, người quá cố và những người đang hiện hữu. Cuộc hành trình đi tìm chính anh. Mà theo cách nói ông chủ của Dai thì "đây là duyên số. Anh hãy đi làm" còn với anh thì dường như đây là sự trừng phạt của cho chính anh, ngày mẹ mất anh đã không có mặt và giờ đây anh phải làm công việc khâm liệm này.
Đó là một bà cụ đã qua đời sau 2 tuần mới được khâm liệm trong sự cô đơn, quạnh quẽ. Đó là một cô gái đã thay đổi đến độ không còn là đứa bé gái mà cha mẹ cô sinh ra. Đó là một cô gái nhưng với bộ phận giống đực gắn trên mình... Những câu chuyện ấy dần cho anh sự nhiệt tâm trong công việc. Lau sạch cơ thể cho người đã mất là mang đi đau khổ, phiền muộn của kiếp người đã kinh qua và tạo sự sạch sẽ cho một sinh linh mới bắt đầu.
Qua mỗi vị khách là thêm 1 lần tìm lại ký ức. Đây là cây cello khi anh còn nhỏ cha bắt anh ngồi học hàng giờ. Đây là cục đá to và gồ ghề cha trao vào tay anh ngày còn là một cậu bé đi mẫu giáo. Thư đá, biểu hiện cảm xúc và tình cảm của người tặng nó. Nếu nó nhẵn nhụi thì nó tượng trưng cho hạnh phúc và vui vẻ. Nếu nó thô ráp thì tượng trưng cho sự phiền muộn. Anh đã trao vào tay cha cục đá nhỏ thôi, còn cha lại trao cho anh một cục đá thật lớn và gồ ghề.
Những đĩa nhạc của cha ở quán cafe, mẹ anh vẫn giữ. Mika, vợ anh nói rằng cô tin mẹ vẫn còn yêu cha cho đến tận cuối đời còn anh thì lại nghĩ là không thể.
Anh đứng trên cầu và nhìn xuống dòng nước. Cá hồi đang kẹt, mắc vào đá. Anh tự hỏi biết rằng sẽ chết mà sao vẫn đi qua. Vì đi qua để tìm về nơi mình đã sinh ra.
Ông chủ của anh, người mà luôn tin vào duyên số. Luôn cho rằng việc anh đến phỏng vấn xin việc, việc anh làm công việc này... tất cả là do duyên số. Và việc, ông làm công việc khâm niệm suốt 9 năm qua, vị khách đầu tiên chính là vợ ông - cũng là duyên số.
Khi từ bỏ cây cello 180.000 yên anh như trút đi gánh nặng. Anh từ bỏ âm nhạc. Và giờ đây, khi vợ bỏ đi vì không đồng tình với công việc của anh. Anh trở về với cây cello tuổi thơ. Anh chơi hàng giờ trên những cánh đồng, anh chơi cello như bản nhạc của người gác cổng tiễn một kiếp người hay những kiếp người lần lượt đi qua những bản cello anh chơi...
Có thể nói việc sau 30 năm để nhớ khuôn mặt cha là điều khó khăn, đặc biệt khi cha anh thật tệ. Giờ đây, anh đang ngồi làm công việc của anh, cho chính cha mình. Cục đá của anh năm nào, nằm chặt trong bàn tay đã cứng của cha. Và khi anh có thể nhìn ngắm ông thật kỹ thì những đường nét mờ nhạt về cha dần dần hiện rõ. Chính lúc ấy, anh đã nhận ra cha mình. "Ông ấy chính là cha anh".
Cách làm film khiến người xem liên tưởng tới đạo diễn xứ Hàn Kim Ki Duk. Còn nội dung, các tình tiết ẩn dụ thì gợi đến Haruki Murakami.
Nếu tôi type bài này hồi chiều thì có lẽ sẽ không lộn xộn và có thể nói được nhiều hơn vì khi ấy mới xem xong film. Lúc ấy có thứ cảm giác không làm gì đó, không kể cho ai đó, hay đại loại thế thì không chịu được. Nhưng rồi cứ giữ giữ trong đầu và cũng có phần thấy quá sức để nói gì đó nên thôi. Giờ thì đúng kiểu "nhớ gì chép đó" rồi! Tự nhiên muốn mở cái list Minamoto Kobayashi Group để nghe.
Khi xem tôi nhớ đến ngày bốc mộ ông Nội. Ngày bé không biết gì nhiều, khi về đã thấy ông nằm trong áo quan. Cách đây 2 năm thì bốc mộ cho ông. Lúc ấy rạng sáng ngồi cọ cọ từng phần xương của ông đề cho vào quan nhỏ... Nghĩ là mình đã làm những điều cuối cùng...
THE SECRET GARDEN
Trong tôi đang hỗn mang quá! Cứ nghĩ tới đâu thì type tới đó. Cắt mạch nghĩ thì chuyển và tôi không biết sẽ type những gì... Hum
Cũng không biết vì lẽ gì mà dạo ấy tôi lùng rất kỹ về Secret Garden. Ban đầu thì cứ nghe và thấy thích, không biết đâu là hit để mà nghe. Nói chung thẩm mỹ nhạc của bản thân chưa bao giờ là cao hay có chất lượng.
Việc đọc sách cũng vậy. Không hề có định hướng vì vậy mới xảy ra tình trạng. Mới nhận thức mọi sự thì bạ sách nào là đọc sách ấy. Ví như Sidney Sheldon là của chị gái mang về vứt ở giá sách, hay đọc bài điểm sách "Cơ hội của Chúa" thì nằng nặc đòi cha đi kiếm, "Không gia đình" thì thấy trên giá sách của Cụ Gìa, "Tuổi thơ dữ dội" thì đi lượn sách báo cũ mang về...
Cứ như vậy, mọi thứ lộn tùng phèo. Có người cũng cười vì lớn từng tuổi này rồi lại mua nhiều văn học thiếu nhi về nằm ghếch chân lên đọc.
"The secret garden" ôm về cùng dạo với Emil, Mio, Karlsson, Buồn nôn, Phân tâm học... Ngay khi nhìn thấy cuốn The Secret Garden, tôi biết mình sẽ thích nó. Chỉ là cảm giác thấy vậy. Lúc ấy chỉ liên tưởng tới Song from secret garden...
Việc đọc thì đi theo chiều Hiểu - Tưởng tượng - Cảm nhận
Còn nghe thì Cảm nhận - Tưởng tượng - Hiểu
Tối qua, tôi ngồi xem film The secret garden ( 1993 ). Nhưng vẫn như mọi lần, nếu tôi vì thích 1 cuốn văn học nào đó mà tiếp tục sự thích ấy qua ngôn ngữ điện ảnh thì tôi đều thất vọng. Phim làm rất nông, những điều đẹp đẽ mà như tôi cảm nhận qua cuốn sách "phép màu" đều không được thỏa mãn. Nhìn chung là tôi không thích qua ngôn ngữ điện ảnh.
Quay lại...
Khi tôi nghe bản Song from secret garden lần đầu và cho đến tận trước lúc đọc cuốn sách thì bản này gợi cho tôi một cảm giác buồn nao nao, da diết, khó tả. Nó không là cái đau, mà là sự trống trải, trống của những điểm thủng. Một tình cảm có đôi khi xen cả phần trống hoác đến sạch sẽ. Giống như bạn nhìn về một miền xa xăm có bạn và một ai đó đã từng, nhưng giờ chỉ có bạn mà thôi. Hay nó cho bạn cảm giác bạn đang đi dạo trong khung cảnh ngút tầm mắt. Đi và đi...
Có thể là do cảm tính. Qủa thật, dạo tôi nghe bản này nhiều nhất là khoảng này năm ngoái. Lúc ấy tôi nghiện Haruki Murakami quá đỗi. Và tôi tự cho khu rừng của Kafka Tamura tựa cũng như một khu vườn bí mật (ẩn). Tôi cũng hay lên tầng 6 để nhìn về những nơi có nhiều cây to quanh khu nhà và hít hà căng lồng ngực cái không khí mà tôi cho rằng, nó là mùi của cái cây to đằng xa ấy.
Đôi khi, bị một cảm giác gắn theo như vậy. Nó như hiệu ứng ấy. Khi tôi nhớ thân yêu, tôi cũng hay nghe lại bản Norwegian Wood. Nó như một khung cảnh kỉ niệm vậy. Dù tôi thì cho rằng nó hơi buồn buồn vì tôi cứ nghĩ tới hình ảnh khoác tay đi dạo trên những đồi cỏ xanh xanh trong mưa nhẹ. Còn anh thì nghĩ cô gái ấy thật buồn cười. My God!
Hôm rồi, có Chàng nhắn tin cho tôi nói rằng, ngồi nghe Lament ( Uaral ) mà nhớ tôi quá chừng. Nghĩ cũng hài! Tôi thì vì Lament mà làm một bài thơ ngắn ngắn tới độ cảm giác trong người như phát rồ. Cứ ở dưới vực thật sâu, giữa thác nước và hồ và chỉ mình tôi ngó lom lom lên thật xa một thứ ánh sáng trên cao. Gờ ánh sáng ấy cao và tôi đợi, không biết đợi ai hay đợi điều gì chỉ biết vừa muốn mình được lên với ánh sáng, vừa không muốn rời khỏi nơi sâu thẳm này.
Khi đọc The Secret Garden ( Frances Hodgson Burnett ) tôi băn khoăn, đúng hơn là cũng có phần lo lắng rằng liệu mình có vỡ òa ra không? Nó thực là thứ cảm giác thường hiếm xảy ra. Nhưng khi gấp sách lại rồi, nằm im mà nghe Song from secret garden thì bản nhạc dường như không chỉ là nỗi buồn. Có những quãng violin khiến bạn nghĩ mình là Mary Lennox đang ở giữa cánh đồng hoang để hít căng tràn hương thạch thảo. Rồi cũng có khi, nó là những hồi ức của một nỗi đau khóa kín trong 10 năm của người chồng mất vợ. Hay nó là sự u tối đến ảm đạm của cậu bé Colin để rồi một ngày khu vườn nói với cậu hay cậu nói với khu vườn rằng :"Tớ sẽ sống mãi, mãi mãi!". Khi tiếng violin ấy da diết quãng cao thì piano điểm vào những khoảng trầm, như một vòng tay. Vòng tay "phép màu".
Tôi có lần nói với Th rằng, có những khi cuộc sống không buồn, cũng không vui nhưng cũng không thể cười. Những lúc ấy thường tự hỏi, trong lớp học này những cái miệng đang cười, nói hay họ trêu đùa là vì nguyên do gì? Em nhìn tôi rất lạ!
Hôm rồi, tôi chở em về nhà. Em nói rằng khi em nhìn lại những bức ảnh cách đây 1 năm, em thấy em cười và em cũng hỏi tại sao khi ấy mình lại có thể cười tươi được như thế?
Mỗi người ai cũng có một khu vườn bí mật (ẩn). Khu vườn ấy có thể ảm đạm, khô cằn để trải mình ra nhiều năm tháng, nhưng cũng có khi chỉ là 1 khu vườn để đi vào và khóa lại như bé Mary, Colin, Dickon... Và là khu vườn đêm, khi chơi trò dẫm chân và bước đi. Mùi của khu vườn nhỏ và mùi khu vườn đêm trong gió nhẹ. Không phải thôi miên. Là mùi yêu thương nguyên sơ ban đầu.
Cái được duy nhất khi tôi xem film là giờ đây nó thỏa mãn 1 khung sẵn có về những cảnh thần tiên lưu lại trong bộ não để khi nằm nghe những âm thanh này thì tôi biết đoạn nào sẽ là cảnh cây cối đâm chồi tìm sức sống, tìm sự hồi sinh, và đoạn nào là khúc nhạc "công trình nghiên cứu khoa học" của Colin...
Tôi nhớ những ghi nhận về chính mình của bé Mary và nhoẻn miệng cười. Tôi nhớ sự giận dữ, ích kỷ của Colin ( và liên tưởng tới ai đó ), tôi cũng nhớ những biểu hiện cau có của ông Ben làm vườn, tôi nhớ khuôn mặt chìm trong u tối của chủ nhân lâu đài. Tôi thích những tiếng cười ngây ngô trong phòng Colin. Thích những trò giả bộ mà lũ trẻ nghĩ ra. Đúng! Trẻ con thì là trẻ con thôi. Thật dễ chịu... Tuổi thơ ấy, nghĩ ra thật dễ chịu!
Bạn có bao giờ từng tự nhủ thầm "Tôi có thể, tôi có thể làm nó, tôi có thể..." hay tự nhủ cho ai đó "Anh có thể, có thể, có thể làm được ..." - My Secret Garden!
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)