Over and over I whisper your name. Over and over I kiss you again
TT&NT

Hiển thị các bài đăng có nhãn linglei. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn linglei. Hiển thị tất cả bài đăng
23.2.09
ĐIÊN CUỒNG NHƯ VỆ TUỆ
SƠN LÊ dịch VƯƠNG TRÍ NHÀN giới thiệu Lời giới thiệu BẢN TỰ BẠCH CHÂN THÀNH CỦA TUỔI TRẺ Văn học thế giới từng biết đến nhiều cuốn sách ghi lại những băn khoăn khắc khoải của lớp thanh niên khi bước vào đời. Tác phẩm lớn nhất của J.W.Goethe là “Faust”, nhưng kiệt tác đó rất kén độc giả, tức là chỉ những ai có nhu cầu suy tư về những vấn đề siêu hình mới tìm đọc. Trong khi đó, nếu cần kể một cuốn tiểu thuyết khiến Goeth trở nên thân tình với mọi người thì đó chính là “Những đau khổ của chàng tuổi trẻ Werther” (thiên truyện, theo sự ghi lại của người đương thời, đã khiến bao thanh niên tự tử). Gần với chúng ta hơn, “Buồn ơi chào nhé” của Françoise Sagan trở thành sách bán chạy, hơn nữa có thể bảo nó trở thành một sự kiện của văn học Pháp. Tại sao như vậy? Đơn giản chỉ vì qua cuốn tiểu thuyết này, người ta có thể nhận ra cả bộ mặt tinh thần của những thanh niên mười tám đôi mươi trong những năm 50 thế kỷ XX. Họ lớn lên trong một thời điểm mà sự chuyển mình của xã hội hiện đại đạt tới điểm chín. Khác với con người cổ điển vững vàng chắc chắn trong niềm tin cũng như hành động, họ luôn khổ sở vì gần như không hiểu tại sao mình lại như thế này mà không như thế khác. Ngay bản thân, họ cũng không làm chủ nổi. Họ có thể lười biếng độc ác mà chẳng có lý do nào rõ rệt. Ngày họ cảm thấy trưởng thành cũng là ngày họ nhận ra một cách chắc chắn rằng cuộc đời vô lý không phương cứu chữa và họ muốn vượt lên trên sự vô lý ấy để tồn tại. “Điên cuồng như Vệ Tuệ” cũng đi theo cái mạch đã được gợi mở từ Goethe đến Sagan. Nhân vật chính trong các thiên truyện dưới đây thường là những nữ thanh niên trẻ tuổi của nước Trung Hoa thời cải cách và mở cửa, lòng đầy hăm hở bước vào cuộc sống. Và đón chào họ là gì? Là một cuộc sống đang mất dần đi những giáo điều – vốn bảo là thiêng liêng cũng được mà bảo là phù phiếm cũng được – để trở lại với những yêu cầu tự nhiên và trần tục. Trong khi xã hội như một cỗ máy chạy hết tốc lực cốt làm ra của cải vật chất thì mỗi người tìm lấy cách để tự lo cho bản thân mình, và việc đó được chung quanh sẵn sàng khuyến khích, miễn nó không đi ngược trào lưu chung và ngăn cản tự do người khác, tức không vi phạm luật pháp là được. So với xã hội Trung Hoa cũ đầy húy kỵ và khuôn mẫu ràng buộc con người, thì tinh thần chủ yếu chi phối xã hội hiện đại là tinh thần giải phóng. Lớp trẻ không giấu diếm rằng họ muốn được giàu sang sung sướng; muốn được nếm trải mọi niềm lạc thú trên đời. Hơn thế nữa, họ muốn khẳng định mình; muốn tự khám phá và trình ra cho thế giới thấy mình là người thế nào; muốn nổi tiếng bằng mọi giá có thể có. Khi tự nhiên khi thì cố ý, họ hăm hở tự bộc lộ, để buộc người ta phải chú ý đến mình. “Triết lý cuộc sống của tôi là tiêu xài vật chất giản đơn, tinh thần không bị gò bó, bất cứ lúc nào cũng chỉ tin ở sự xúc động nội tâm, phục tùng nỗi cháy bỏng trong sâu thẳm tâm hồn, không cưỡng lại những cảm hứng điên cuồng, sùng bái mọi dục vọng, tận tình giao lưu với mọi cuồng vui của cuộc đời bao gồm cao trào giới tính, đồng thời kính nhi viễn chi đối với tác phong nịnh hót hời hợt tiểu thị dân, côn đồ”. Những câu bộc bạch loại đó nằm rải rác đây đó trong các trang sách; người ta có thể đồng tình hay phản đối, song phải nhận là chúng được nói ra thành thật và chính chúng tạo nên một phần lớn sức lôi cuốn của những trang sách. Làm nền cho mọi sinh hoạt của lớp trẻ ở đây là một xã hội với bộ mặt thực sự hiện đại. Con người lăn lộn giữa tiện nghi vật chất, các loại rượu, các loại chất kích thích. Họ nói chuyện với nhau trực tiếp thì ít mà qua điện thoại cầm tay thì nhiều. Nơi làm việc của họ là các loại nhà hàng, trên cái nền nhạc gấp gáp lấy ra từ các loại băng đĩa mới nhập từ Anh Mỹ. Một chi tiết có vẻ nhỏ nhưng không nên bỏ qua, ấy là trong các thiên truyện bạn đọc sẽ đọc sau đây, truyện nào cũng thấy có một nhân vật Tây phương khi thì da đen khi thì da trắng khi thì người Pháp khi người Hà Lan (trong một tác phẩm quan trọng khác của tác giả mang tên “Cục cưng Thượng Hải”, nữ nhân vật chính cũng như con lắc dao động giữa một bạn nam người Trung Hoa là Thiên Thiên và một người đàn ông Đức có tên là Mark). Văn minh phương Tây như vậy đã trở thành một bộ phận của đời sống mọi người dân bình thường. Ai người có thói quen co mình lại trong tư duy cũ chắc tự hỏi thế thì nếp sống Trung Hoa đã ổn định từ ngàn đời có bị đe doạ? Nhưng những người ấy đã lo quá xa. Vốn từ thời trung đại đã có sự giao lưu rộng rãi với cả thế giới, giờ đây văn minh Trung Hoa lại đang tiếp tục làm giàu cho bản sắc của mình bằng những cuộc đối thoại thông minh với mọi nền văn minh khác, trước hết là văn minh Tây phương, và lớp người trẻ tuổi của đất nước đang tận dụng cơ hội đó như một phương tiện để qua người mà hiểu mình, tìm ở người khác cái mình chưa có, trước tiên là để nhận thức, để tận hưởng cuộc sống. Nhà văn ở đây không làm gì khác hơn là ghi nhận miêu tả cái điều mà xã hội đã chấp nhận. Lớp người đứng tuổi lại cũng thường cho rằng tự do sẽ làm cho lớp trẻ hư hỏng. Với các nhân vật của Vệ Tuệ, câu chuyện tự do không mang một ý nghĩa chật hẹp như vậy. Ví dụ như trong vấn đề tình dục. Đó là cái tự do đơn giản, lâu đời, được hiểu một cách trần trụi mà lại dễ bị hiểu sai, giải thích sai, tức dễ bị tha hóa nhất, song chính vì thế lại càng có sức lôi cuốn con người. Trong một số tiểu thuyết Trung Quốc được dịch và in ra tiếng Việt gần đây như “Đàn ông một nửa là đàn bà” của Trương Hiền Lượng, “Phế đô” của Giả Bình Ao, “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn, “Linh Sơn” của Cao Hành Kiện, các nhà văn gần như đồng thời cùng nhận ra một sự thực: càng vào những lúc tinh thần tư tưởng của con người bị dồn nén và những xã hội xô đẩy như muốn đè bẹp mỗi cá nhân thì họ càng muốn tìm tới cái tự do bản năng kia, để trước tiên là tạo một thế quân bình cho sự sống, sau nữa cũng là một cách để tự khẳng định rằng mình có thể bất chấp mọi thách thức. Vệ Tuệ và lớp nhà văn trẻ đến với các vần đề này lại còn hồn nhiên hơn nữa. Những cuộc truy hoan chỉ là một phần đời sống tự nhiên của họ và sở dĩ họ muốn nói thật to lên cho mọi người biết chuyện ấy chẳng qua chỉ là muốn trêu ngươi, muốn tỏ ra là mình có thể phớt lờ trước mọi thành kiến cấm đoán cổ lỗ. Dù có nhiều trang tả cảnh làm tình, song không thể nói những trang truyện ở đây mang tính cách khiêu dâm. Trong con mắt của lớp trẻ (theo tiêu chuẩn cũ) thực ra không có gì quan trọng. Điều khiến họ bận tâm là được sống theo ý mình. Mặc dầu vậy, họ không bao giờ rơi vào hưởng lạc thuần túy mà vẫn làm việc như điên. Tâm trí họ không ngớt bị dày vò bởi những vấn đề mang ý nghĩa nhân bản. Làm sao để biết thực ra mình là thế nào, mình có thể trở thành một con người thế nào? Nên sống sao cho phải? Đâu là hạnh phúc đâu là bất hạnh?... Cũng như các thế hệ trước những câu hỏi muôn đời ấy cũng luôn ám ảnh họ hành hạ họ, và bởi họ đã nghĩ về chúng một cách nghiêm chỉnh, nên không thể nói là họ tầm thường chút nào. Nên coi là điều mừng chứ làm sao lại nỡ lòng lên án, chê trách, đe nẹt họ nếu như câu trả lời của họ khác hẳn câu trả lời của cha anh ngày trước? Theo một số tài liệu thì Vệ Tuệ sinh vào đầu những năm bảy mươi thế kỷ XX, tức thuộc loại thanh niên cùng lớn lên với những đổi thay của Trung Quốc trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX. Có vẻ như cũng giống như trường hợp F.Sagan mà phần trên đã nhắc, người thanh niên này đi vào văn học theo cái lối nhân tiện thì thử cầm bút một phen và chính do chỗ không biết sợ là gì mà lại có được tiếng nói riêng trong văn học. Không phải ngẫu nhiên, trong một cơn say sưa, Vệ Tuệ có lần tự thú: “Khát vọng của tôi gần như lý do tồn tại của tôi là làm cho thành phố nổ tung như một trận pháo hoa” (ý muốn nói buộc tất cả mọi người phải đọc mình phải nói đến mình). Ước ao ấy của tác giả đã được đền đáp với cuốn sách gây nhiều tiếng ồn “Cục cưng Thượng Hải”. Thông thường sau một thành công như vậy, một tác giả trẻ liền được giới sáng tác chuyên nghiệp chào đón và bản thân người ấy cũng tự nguyện gia nhập hàng ngũ những người cầm bút, bằng lòng chấp nhận những lề thói trong nghề để chuẩn bị có “những bước tiến mới”. Về phần mình, Vệ Tuệ vẫn như một thứ cây dại giữa đồng, chỉ mải mê viết và lo sống với bạn đọc hơn là lo sống với những người cùng giới. Một điều thú vị không kém là không phải trong tiểu thuyết đầu tay ấy mà cả trong những chuyện vừa truyện ngắn viết tiếp về sau, tác giả vẫn có lối viết tự thuật một cách cố ý, dù cho nữ nhân vật chính đội tên khác khai thác cuộc đời người ấy theo những khía cạnh khác (ví như trường hợp thiên truyện mang tên “Ngải Hạ” sau đây bạn đọc sẽ đọc) thì vẫn có những chỗ cây bút trẻ này cố ý hé cho bạn đọc thấy rằng nhân vật trong sách với chính mình chỉ là một. Không định trổ tài miêu tả hay kể chuyện, lại càng không định làm gương cho ai hoặc góp phần vào việc giáo huấn ai…, thực ra ở người nữ thanh niên này chỉ có một băn khoăn duy nhất là viết ra buộc mọi người phải đọc. Qua những trang viết xây dựng nên hình ảnh của mình trong lòng xã hội. Làm cho mọi người biết mình nổi tiếng và độc đáo đã rồi người ta sẽ mua sách mình viết. Và thích tạo ra một sự chào đón mang tính cách bùng nổ. Các cuốn sách của Vệ Tuệ do đó có cách đến với bạn đọc tương tự như hồi ký của các cô đào xi-nê, các ca sĩ, hoa hậu người mẫu, cầu thủ bóng đá nổi tiếng thường trở thành sách bán chạy ở các nước Âu Mỹ. Đọc sách người ta không cảm thấy được trò chuyện với một nhà văn mà chỉ cảm thấy như được tiếp xúc với một con người, còn sau đây người đó sẽ viết lách ra sao có trở thành văn sĩ lớn hay không, không cần biết và đương sự cũng không muốn cho chúng ta biết. Nhưng như thế tưởng cũng đã là quá đủ. Trong hoàn cảnh mà các giá trị thường xuyên chao đảo như xã hội hiện đại đã có một tiếng nói cất lên và chúng ta tìm thấy trong tiếng nói ấy nhiều sự đồng cảm. Vương Trí Nhàn
ĐIÊN CUỒNG NHƯ VỆ TUỆ
BÔNG HỒNG CHUNG
(lời tựa của tác giả) Tôi thường viết trong tiếng hát rất hay nhưng mang tính hủy diệt của Kurt Cobain, viết những chữ hay, rất hay, để tôi và bạn bè của tôi phân biệt với những người tương tự như tôi, viết những chữ như đóa hoa bí ẩn, là đóa hoa bí ẩn. Có lúc tôi cũng nghe dạ khúc của Mozart và ca kịch Italia, âm nhạc đẹp và buồn làm xúc động linh cảm tôi, làm cho chữ nghĩa của tôi có cánh như Thiên sứ, trong sạch, không dung tục. Tất nhiên, cũng có lúc không ra gì. Tốt nghiệp trường Đại học Phục Đán, những nhược điểm vốn có ở người được giáo dục hoàn thiện và chính thống đôi khi cũng làm trở ngại tôi, trong khi viết tôi thường quên đi một số điều, để có thể nghiệm sự xung động nhất của bản năng, tình cảm trong sáng, triết lý giản đơn. Tất cả những điều đó đều rất khó khăn. Tôi theo đuổi phong cách viết văn hò hét và đẹp tái sinh từ trong huyệt mộ. Đến nay, những người lớn tiếng nguyền rủa tôi đã cho tôi dũng khí tỉnh táo. Tôi là một cô gái có khả năng viết văn, tôi không hiểu điều đó có phải là hạnh phúc của tôi hay không nhưng sự thực viết văn đã cho tôi giấc mơ có thể ẩn náu. Nhiều buổi chiều nắng gắt, nhưng trong phòng rất âm u lạnh lẽo, rèm cửa sổ khẽ lay động, nhiều đêm không tình ái, ăn hoa quả và hút thuốc, tôi vào ẩn náu trong giấc mơ ấy. Tôi yêu quý mọi sự vật thời thượng và tiên phong cũng đủ hứng thú và khả năng để quan tâm đến chúng. Có thể chăng, tôi làm một con sâu nhỏ, chui vào đầu óc lớp người trẻ tuổi thời thượng, chui vào bụng mọi xao động và điên cuồng của khát khao như chui vào trái táo vậy. Tôi sẽ ca hát vì họ. Tôi có nhiều khó khăn, càng nhiều hơn là những trở ngại tự bản thân. Nhiều lúc tôi đeo cái kính đen đẹp, ngồi ngẩn ngơ trước máy tính, lòng bàn tay đẫm mồ hôi. Tôi gọi điện thoại cho Vi Vi, bảo tôi có chuyện muốn nói nhưng không nói được, tôi muốn viết nhưng không viết nổi. Nó bảo tôi, nói đi, nói đi, nói ra sẽ không bị nói lắp, viết đi, viết đi, viết ra có thể bay bổng, điên cuồng viết, điên cuồng như Vệ Tuệ. Tôi rất vui vì có người bạn như thế. Tôi biết ơn những người đã cổ vũ tôi, tất nhiên quan trọng nhất là sự giúp đỡ của bố mẹ, mọi người bảo viết văn không phải là nghề hay, nhưng mọi người đều yêu thương tôi. Tôi không thích bàn bạc về sáng tác, điều đó làm tôi cảm thấy sợ hãi và mất tự tin. Từ nhỏ tôi không phải là đứa bé thích dọn dẹp nhà cửa, cũng vậy, khi bàn đến sáng tác, tâm trạng tôi thường rối bời bởi trong lòng khát khao và lo lắng không yên. Có người viết văn vì những điều thầm kín trong cuộc sống, có người không phải thế. Khi tôi xem xét chữ nghĩa và câu chuyện của tôi bằng cảm giác choáng váng hoa mắt của số phận, tôi có dự cảm được bay bổng. Có thể là, để tác phẩm của tôi đến với xã hội, đến với mọi người, vâng, làm một bông hồng chung.
(lời tựa của tác giả) Tôi thường viết trong tiếng hát rất hay nhưng mang tính hủy diệt của Kurt Cobain, viết những chữ hay, rất hay, để tôi và bạn bè của tôi phân biệt với những người tương tự như tôi, viết những chữ như đóa hoa bí ẩn, là đóa hoa bí ẩn. Có lúc tôi cũng nghe dạ khúc của Mozart và ca kịch Italia, âm nhạc đẹp và buồn làm xúc động linh cảm tôi, làm cho chữ nghĩa của tôi có cánh như Thiên sứ, trong sạch, không dung tục. Tất nhiên, cũng có lúc không ra gì. Tốt nghiệp trường Đại học Phục Đán, những nhược điểm vốn có ở người được giáo dục hoàn thiện và chính thống đôi khi cũng làm trở ngại tôi, trong khi viết tôi thường quên đi một số điều, để có thể nghiệm sự xung động nhất của bản năng, tình cảm trong sáng, triết lý giản đơn. Tất cả những điều đó đều rất khó khăn. Tôi theo đuổi phong cách viết văn hò hét và đẹp tái sinh từ trong huyệt mộ. Đến nay, những người lớn tiếng nguyền rủa tôi đã cho tôi dũng khí tỉnh táo. Tôi là một cô gái có khả năng viết văn, tôi không hiểu điều đó có phải là hạnh phúc của tôi hay không nhưng sự thực viết văn đã cho tôi giấc mơ có thể ẩn náu. Nhiều buổi chiều nắng gắt, nhưng trong phòng rất âm u lạnh lẽo, rèm cửa sổ khẽ lay động, nhiều đêm không tình ái, ăn hoa quả và hút thuốc, tôi vào ẩn náu trong giấc mơ ấy. Tôi yêu quý mọi sự vật thời thượng và tiên phong cũng đủ hứng thú và khả năng để quan tâm đến chúng. Có thể chăng, tôi làm một con sâu nhỏ, chui vào đầu óc lớp người trẻ tuổi thời thượng, chui vào bụng mọi xao động và điên cuồng của khát khao như chui vào trái táo vậy. Tôi sẽ ca hát vì họ. Tôi có nhiều khó khăn, càng nhiều hơn là những trở ngại tự bản thân. Nhiều lúc tôi đeo cái kính đen đẹp, ngồi ngẩn ngơ trước máy tính, lòng bàn tay đẫm mồ hôi. Tôi gọi điện thoại cho Vi Vi, bảo tôi có chuyện muốn nói nhưng không nói được, tôi muốn viết nhưng không viết nổi. Nó bảo tôi, nói đi, nói đi, nói ra sẽ không bị nói lắp, viết đi, viết đi, viết ra có thể bay bổng, điên cuồng viết, điên cuồng như Vệ Tuệ. Tôi rất vui vì có người bạn như thế. Tôi biết ơn những người đã cổ vũ tôi, tất nhiên quan trọng nhất là sự giúp đỡ của bố mẹ, mọi người bảo viết văn không phải là nghề hay, nhưng mọi người đều yêu thương tôi. Tôi không thích bàn bạc về sáng tác, điều đó làm tôi cảm thấy sợ hãi và mất tự tin. Từ nhỏ tôi không phải là đứa bé thích dọn dẹp nhà cửa, cũng vậy, khi bàn đến sáng tác, tâm trạng tôi thường rối bời bởi trong lòng khát khao và lo lắng không yên. Có người viết văn vì những điều thầm kín trong cuộc sống, có người không phải thế. Khi tôi xem xét chữ nghĩa và câu chuyện của tôi bằng cảm giác choáng váng hoa mắt của số phận, tôi có dự cảm được bay bổng. Có thể là, để tác phẩm của tôi đến với xã hội, đến với mọi người, vâng, làm một bông hồng chung.
ĐIÊN CUỒNG NHƯ VỆ TUỆ ( I )
TIẾNG KÊU CỦA BƯƠM BƯỚM Tặng JUDE Ngoài cửa sổ trời mưa liên miên, báo và đài đưa tin đây là hiện tượng El Nino kỳ lạ cả trăm năm nay mới thấy. Mùi ẩm mốc thấm đẫm da thịt, đầu tóc. Phần mềm nhất của thành phố vào lúc này đang lở loét. Tôi mặc rất ít áo, chân dẫm đất đứng trước tấm gương lớn, hút điếu thuốc đầu tiên kể từ hai tháng sau ngày cai nghiện. Làn khói xanh như móng vuốt mèo đang từ từ bò lên mặt, lên mắt, một sợi dây mỏng manh quấn lấy người tôi. Tôi nhìn vào nơi sâu thẳm nhất trên tấm gương sáng loáng, ẩn hiện một khuôn mặt như ngôi sao trong đêm lạnh. Khuôn mặt của cô gái ấy. I Tối 14 tháng 2, bar Blues tổ chức liên hoan “Thiên đường người yêu”. Tôi và Bì Bì lấy đất làm buổi liên hoan chia tay nhau. Ngồi trên taxi, chúng tôi ngắm cảnh phố phường đầy hoa tươi và ánh đèn nê-ông cùng với phong cách sân khấu lướt nhanh ngoài cửa xe. Buổi tối của “Ngày tình yêu” thật đậm hương sắc, nhưng chúng tôi lại ngửi thấy mùi bốc lên từ những huyệt mộ. Đúng thế, tối hôm nay chúng tôi cùng nắm tay nhau đưa tang cuộc tình ma-ra-tông kéo dài năm năm. Thời gian, địa điểm và phương thức chúng tôi chọn không giống bất cứ ai, nhưng câu chuyện của chúng tôi phát triển không thoát khỏi kịch bản vô hình đã định sẵn. Bì Bì là một thương nhân không mấy thành công. Anh ta đã từng buôn vật liệu xây dựng, đồ chơi trẻ con, buôn lậu ô tô, chăn đệm… Còn tôi là một diễn viên cá thể bất đắc chí. Tốt nghiệp ở trường Nghệ thuật sân khấu, từng sắm vai người yêu ít lộ mặt hoặc những cô bảo mẫu chỉ nói chừng bốn năm câu gì đó trong các phim truyền hình loại hai, cũng đã từng vào vai chính, một họa sĩ thiết kế thời trang rơi vào vòng xoáy tình yêu tam giác với lời than thở “lòng tôi rối như tơ vò” trong một bộ phim chẳng ai nhắc đến. Đạo diễn của bộ phim là người yêu của tôi hồi đó, anh ta rất thích tôi tô son trầm và mắt xanh, giống như các cung phi Ả-rập thất sủng. Trong một buổi liên hoan mừng sinh nhật, một người bạn của nhà đạo diễn vốn là bạn học thời hai người còn học tiểu học, rất có cảm tình với tôi, tôi cũng có ấn tượng đặc biệt với anh này, anh ta như cái bóng nhà đạo diễn người yêu tôi đảo ngược trong gương, ấy là tôi muốn nói đến sự khác biệt trong tính cách hai người. Bì Bì trầm mặc, khác với anh bạn đạo diễn miệng lưỡi liến thắng ba hoa. Quen nhau hai tháng chúng tôi sống chung với nhau. Người anh ta cao lớn, trông đẹp mã, ánh mắt mơ hồ khó hiểu, mỗi lần phủ lên người tôi cứ như giấc mộng tái sinh. Trong giấc mộng, anh ta làm tôi quay cuồng, sức mạnh ma quái và những đường cong tuyệt đẹp khiến tâm hồn bay bổng. Năm năm là một quá trình dài, rất khó mà cũng không đáng để thuật lại. Bì Bì làm những việc không tốt cũng không có gì xấu. Để làm việc, anh ta thường xuyên ăn uống, vui chơi ở đâu đó, có những lúc anh đi Bắc Kinh hoặc Thâm Quyến bàn chuyện làm ăn đem theo cả tôi cùng đi. Trong công chuyện làm ăn, anh ta nhạy cảm, sắc sảo hơn trong cuộc sống thường ngày. Còn tôi, trong năm năm thỉnh thoảng lại tham gia một bộ phim rách hoặc phô mái tóc đẹp trong một đoạn phim quảng cáo cho một hãng dầu gội đầu nhưng lại chưa được đem chiếu. Trong các buổi liên hoan, tôi đều trang điểm thật bắt mắt, khiêu vũ, uống rượu, có lúc đọc những bài thơ đậm phong cách Đa Đa của một nhà thơ bí mật nào đó. Tôi bắt đầu trở thành một người con gái khác, hành vi có dấu hiệu thời thượng của các nhà nghệ thuật. Đúng là tôi và Bì Bì đã nảy sinh vấn đề, có thể vấn đề tồn tại từ lâu, nhưng rồi thời gian xô đẩy đến tận cùng. Trong cái vòng gọi là nghệ thuật, tôi bay nhảy bất định như cánh bướm, ở nhà thì không làm nổi một bữa ăn ngon, mọi tâm sức đều dồn cả cho áo quần. Còn anh ta, trên thương trường thì thao thao bất tuyệt, về nhà chỉ im lặng không nói một lời, tưởng đâu phải nộp thuế lời nói. Chúng tôi như hai đoàn tàu chạy song song, mỗi đoàn tàu chỉ biết chạy trên đường ray của mình. Tuy về mặt “ân ái” hai chúng tôi đạt đến mức hoàn mỹ nhưng chúng tôi không ai muốn nhìn ai. Nếu có ai nói với tôi, trong năm năm chung sống đó, Bì Bì chưa hề yêu tôi, tôi cũng không lấy làm lạ. Anh ta như một cái giếng thần bí, tôi nghĩ chưa bao giờ mình nhìn thấu thế giới nội tâm của anh ta. Hôm 12 tháng 2 tôi đề xuất chia tay, ngày 13 anh ta đồng ý và chấp nhận đề nghị của tôi. Bây giờ chúng tôi có mặt ở trong liên hoan “Thiên đường người yêu” của bar Blues trang hoàng rực rỡ, cùng chúng tôi hát khúc tưởng niệm sử thi năm năm. Cũng coi đó là hành vi nghệ thuật. Trong nhà hàng, nhiều đôi bạn tình đang dựa sát vào nhau dạo bước trong nhà hàng. Cũng có những bạn trẻ ngồi hút thuốc, uống bia một mình, tỏ vẻ không quan tâm đến chung quanh. Máy hát phát ra bài Never Mind, những âm thanh hỗn tạp ồn ào khiến khuôn mặt mọi người hiện vẻ hưng phấn dị thường, khí thế nhưng lại rất mềm mại, ẩm ướt, lóng lánh như nước. Tôi với Bì Bì chỉ tìm được một cái bàn trống sát cạnh thùng loa, phía bên kia thùng loa là khoảng trống có thể khiêu vũ. Anh chàng Tiết, chủ nhà hàng từ phía bên kia quầy, ngước cái đầu lên, trông thấy chúng tôi, cười hì hì đi tới. Tiết là bạn học của tôi hồi còn ở Học viện sân khấu, nổi tiếng toàn trường vì chứng đồng tính luyến ái, nhưng bây giờ đã lấy một nữ họa sĩ hơn anh ta sáu tuổi và mở nhà hàng đẹp đẽ này. Tuy mới gặp Bì Bì vài lần, tính trầm mặc của Bì Bì đã để lại ấn tượng sâu sắc cho Tiết. Cứ như Tiết nói, quan hệ giữa tôi và Bì Bì như quan hệ giữa cái nút và cái chai. Cách ví dụ ấy cũng rất mơ hồ nhưng đậm “sắc dục” khiến mọi người vui vui, ai nghe thấy cũng bật cười. Còn Bì Bì thì không có cảm tình với bất cứ người bạn nào của tôi. Tiết đặt tay lên vai tôi, hỏi uống gì, tôi gọi một chai champagne. Tối nay chúc mừng mà! Tôi lắc lư theo tiếng nhạc, cười vô cớ, tưởng đâu không còn quản nổi đầu lưỡi mình. Cái gì? Tiết ghé sát vào tôi. Không, nhân đó tôi hôn vào mặt anh ta và nói mình chấm dứt quan hệ với Bì Bì. Bì Bì ngồi im lặng không nhúc nhích ở phía bên kia bàn, thỉnh thoảng lại nhìn cô bé gầy gò đang khiêu vũ. Cô gái mặc áo đen bó sát người, cái quần bó rộng thùng thình như bao tải và khoét thủng ở đầu gối, đầu tóc rối bù được nhuộm đỏ. Cô gái khiêu vũ cũng rất kỳ lạ, trông cứ như đuổi ruồi, đuổi muỗi trong không trung. Ai cũng thấy có cảm giác mệt mỏi, cứ lo cho cô gái ngất đi bất cứ lúc nào. Nhưng cô gái không có biểu hiện gì sắp ngất, chẳng những thế, cô ta càng nhảy càng hăng hái, toàn thân uốn éo giống như con cá thờn bơn đang uốn mình trong dòng nước chảy xiết, thỉnh thoảng cô ta còn kêu ré lên. Lát sau, sàn nhảy chỉ còn một mình cô ta. Cánh con trai uống say, học theo các ngôi sao ca nhạc nhảy nhót cuồng loạn đứng cạnh đấy la hét ầm ỹ: cô em, cho anh vỗ mông nhé, cô em, cho anh sờ tim nào, cô em, bay với anh đi! Cả bar say sưa, sóng sánh. Tưởng đâu mắt mỗi người như được phủ lớp kính, mùi cơ thể hỗn độn bốc lên từ những mái tóc. “Thiên đường người yêu” giống như mảnh vườn ươm khổng lồ được ủ bằng những chất mục nát, dưới đó là nước đen và lũ côn trùng giao phối và chết chóc. Tôi và Bì Bì mỗi người ôm một cốc lớn champagne, uống ừng ực. Cặp mắt nửa tỉnh nửa say của anh ta trong bóng tối trông thật trêu ngươi, anh ta mỉm cười dịu dàng với tôi, tôi thấm đẫm rượu biến thành hoa đào long lanh trong mắt anh ta. Vào lúc này chúng tôi trở nên tỉnh táo. Rất nhiều cặp tình nhân vào khoảnh khắc chia tay mới thấy thật sự yêu nhau, đó là một trong những hài kịch của cuộc sống. Chúng tôi khiêu vũ, chúng tôi hôn nhau, làn sóng âm thanh ồn ào bên tai và mùi hang động thú vật đang nhận chìm chúng tôi, nỗi thèm khát sâu kín nhất của cơ thể bỗng tỉnh lại trong cơn ngái ngủ. Những cuồng loạn như ngày tận số và mỗi một ký ức giữa chúng tôi trong năm năm qua đang kích thích da thịt và tuyến nước mắt, tôi phát hiện mình đang khóc, dòng nước mắt như ánh sáng linh thiêng của thiên sứ cứu vớt tôi, không để tôi rơi vào vòng tròn của một cô gái thành thị không tình không ái. Nước mắt cũng gây xúc động cho Bì Bì, và đến khi chúng tôi trốn vào buồng vệ sinh làm tình với nhau, anh vẫn khe khẽ gọi tên tôi. Tấm gương bẩn thỉu sau lưng tôi lay động bóng da thịt mềm mại, gương mờ dần, từng mảnh thủy tinh rơi dần xuống cùng thời điểm hoàn mỹ của nhục thể, tiếng vang chói tai, tiếng kêu thất thanh, tình yêu của chúng mình vượt qua bến mê nhà vệ sinh. Đó là câu cuối cùng anh nói bên tai tôi, tôi mơ hồ nghe thấy. Bỗng cửa bật tung. Chúng tôi vẫn giữ nguyên tư thế, nhìn cô gái đang đứng lặng yên ở cửa. Ánh mắt cô gái dừng lại vài giây trên mặt tôi, rồi cô nhún vai, quay đi và đóng sập cửa lại. Bì Bì vừa chỉnh lại áo quần, vừa tự trách mình không cài cửa. Tôi thì cười khúc khích. Cô gái ấy là Punk, vừa khiêu vũ một mình ngoài kia, cô gái xuất hiện đúng lúc giống như một viên đạn nhỏ, “đoàng” một phát, chính thức tuyên bố kết thúc cuộc vui. Cuộc họp mặt của tôi và Bì Bì theo đó có thêm sức sống, không như thông thường.
ĐIÊN CUỒNG NHƯ VỆ TUỆ
LINH HỒN LẠC LỐI
Trên đầu ngón tay, trên nỗi đau màu hạt dẻ và tiếng kêu se sẽ, vào lúc này đang là giữa đêm đen. Căn phòng rất hẹp, những hạt bụi lửng lơ giữa bốn bề bóng tối, góc tường tỏa mùi ẩm mốc lẫn với mùi nước đái chuột lưu cữu nhiều năm. Tôi vẫn mặc chiếc áo pull và quần bò. Bây giờ thì bộ đồ này đã bẩn, dính máu, không rõ đây là máu muỗi hay vẫn nguyên là máu từ đầu tôi chảy ra. Bốn bề yên tĩnh có thể đoán được lúc này là buổi tối. Tôi nằm trên chiếc giường gỗ chật hẹp, như con bò biển được sóng dạt lên bờ, cái chết đến gần mà không có cách nào giẫy giụa thoát ra nổi. Ngoài hành lang thỉnh thoảng lại có tiếng chân bước nặng nề của cảnh sát, có cả tiếng nói chuyện, tưởng chừng hôm nay lại đi truy quét hang ổ đen của những tiệm cắt tóc, vậy là các báo của thành phố sáng hôm sau sẽ dành ba, bốn trang chạy "tít" đại loại như "tấn công mạnh mẽ" ở vị trí nổi bật nhất như vẫn thường thấy. Tư duy của tôi rất rành mạch, vẫn nhạy cảm với tất cả những gì dù nhỏ nhất đang xảy ra ở chung quanh. Tôi vẫn cảm thấy rất rõ đầu đau ghê gớm. Vết thương ở bên trái tuy đã kín miệng nhưng đêm đêm vẫn nhức nhối, tựa hồ có bàn tay đang bóp nặn sục sạo từ trong đầu ra ngoài. Đó là bàn tay của Hân, móng tay nhọn, mu bàn tay có bốn xoáy đồng tiền mềm mại. Hân bảo đó là "phúc tướng". Lúc đi dưới mưa, Hân vẫn khép chặt năm ngón tay đưa ra ngoài ô, để bốn xoáy đồng tiền đựng đầy nước long lanh. Nước mưa long lanh, long lanh sáng như mắt mèo, cả nụ cười dịu dàng rực rỡ như ánh hồng bên khóe miệng, những bức tranh trong ký ức với trực cảm nhẹ như lông hồng cứ thế giao hòa hiện lên nhưng lại như tấm bia mộ đè nặng đầu tôi. Tôi đang bị hành hạ bởi cảm giác dịu dàng, lạnh lẽo, hoang tưởng, cuồng vui, tội lỗi, như tro tàn tan biến trong đêm tối vô hình. Hân chết. Chết khi chuyến "du lịch chia tay" của chúng tôi sắp kết thúc, trên con đường ướt át của miền nam, chiếc xe máy màu đen đâm vào đuôi chiếc xe Audi. Mấy con bướm bay bay trong ánh đèn của xe cảnh sát, bốn chung quanh nồng nặc mùi xăng và mùi ngòn ngọt của huyết tương. Hân nằm kia, như con búp bê vỡ vụn, một tay đặt lên khuôn mặt bị thương, che mắt bên trái, tưởng như che được sự sợ hãi vào lúc cái chết đến gần, có thể che chắn được tai nạn ập đến. Bàn tay trắng trẻo, bàn tay không còn sức lực, dẫu là thiên sứ cũng không ngăn nổi cái đau đớn trẻ con kia. Tôi mở cặp mắt bị che máu lấp, nhìn thấy tất cả nhưng vẫn chưa đi vào ý thức tôi, tựa như được ngụy trang bằng cảm giác xa lạ của ác mộng, đại não tôi loại tất cả những hình ảnh đó, cho đến khi một cảnh sát đến gần, cho đến khi tôi và Hân cùng được đưa vào xe cấp cứu lạnh lẽo. Đêm tối mênh mông như thác lũ nuốt chửng sinh mệnh chúng tôi, đóa hoa của tôi, tội lỗi và nỗi sợ hãi của tôi. Tôi xếp tất cả những thứ đó vào huyệt mộ tối tăm đã được đào sẵn. Hân chết, tôi cũng chết Chuyện xảy ra vào mùa hè năm nay. Tôi học xong các phần của chương trình năm thứ ba về máy tính, muốn tìm một việc làm. Không phải tôi thiếu tiền, tài sản của bà ngoại để lại tạm đủ cho cuộc sống tằn tiện của tôi, ít nhất trong vòng một năm không phải băn khoăn gì về sinh kế. Bố tôi là một người lái xe tải hạng nặng, ông đã lấy vợ hai, sinh con ở Cáp Nhĩ Tân. Trong ấn tượng tôi, ông là người cao lớn, râu quai nón, thích uống rượu, mặc quần áo lao động bẩn thỉu, lái xe chạy rất nhanh nhưng chưa bao giờ xảy ra chuyện đáng tiếc, là người đẹp trai, cánh con gái rất thích, lúc dịu dàng như một chú mèo, lúc nóng nảy đập phá cả lò sưởi, bát đĩa. Ông dạy tôi biết đứng để lái xe, biết mở khóa cửa xe. Mẹ tôi, một thanh niên trí thức đưa tôi từ Cáp Nhĩ Tân về Thượng Hải năm tôi hai tuổi, kiếm được một căn gác bảy mét vuông trong gia đình bà ngoại đông đúc và bắt đầu cuộc sống mới yên ổn giống như một con sên. Bà ngoại, một người giấu vẻ mặt mình trong những nếp nhăn căng chùng là thiên kim tiểu thư của một chủ ngân hàng lớn một nhà đại từ thiện lừng lẫy ở bến Thượng Hải thuở xưa. Trên bàn tay mềm nhũn đến kinh người của bà là chiếc nhẫn mặt ngọc đẹp kỳ lạ. Vẻ ngoài của bà rất uy nghiêm, lúc nào cũng thở dài thườn thượt, các cô chú trong gia đình cũng nói chuyện, than thở bằng giọng đặc trưng của những quý tộc sa cơ lỡ vận. Người mẹ dịu hiền, xinh đẹp của tôi về Thượng Hải được ba năm thì qua đời bởi bệnh ung thư phổi. Hồi ấy, bà tìm được một việc tạp dịch trong một đoàn ca múa của Thượng Hải, mua sắm trang phục, trông coi quần áo, mỹ phẩm, chuẩn bị bữa ăn đêm, quét nhà, có lần đỡ đẻ cho một diễn viên trên đường cùng đoàn đi biểu diễn ở địa phương, chị diễn viên này cùng chồng trình diễn tiểu phẩm vui, chị trong vai người phụ nữ mang bầu. Mẹ tôi rất mệt mỏi với công việc, nhưng trong đoàn có một anh kém mẹ tôi bốn tuổi rất yêu mẹ tôi, mẹ tôi cũng bị mối tình này mê hoặc, khôi phục vẻ đẹp chói lọi và sinh khí vốn có, cho đến ngày gia đình anh buộc anh phải bỏ mẹ tôi, ra Hồng Công sống với ông cậu. Mẹ tôi nhanh chóng lâm bệnh và sớm rời bỏ tôi. Tôi vẫn nhớ người mẹ khốn khổ của tôi nằm trên giường bệnh lén hút thuốc, hút hết điếu nọ đến điếu kia, vẻ mặt bà tỏ ra yên tĩnh, mệt mỏi, người bà tỏa mùi thơm kỳ lạ lẫn với mùi thuốc, bay qua giường, bay lên trần nhà, bay ra ngoài cửa sổ, đó là mùi vị của chết chóc. Một tay mẹ tôi kẹp điếu thuốc, một tay nữa ôm tôi vào ngực, nhẹ nhàng vuốt tóc, vuốt tai tôi, bà nói con rất đẹp trai, rất giống bố con, cũng giống mẹ, con hãy gắng học thật giỏi, học thật thông minh, giữ mối liên hệ với bố con, có thể một lúc nào đó bố sẽ giúp con tìm một công việc thích hợp, con tìm một bạn gái ngoan ngoãn, sạch sẽ là được, không nhất thiết phải đẹp. Mẹ tôi cười ngây dại, rồi ho, mộng mị gọi tên người tình đã bỏ đi Hồng Công. Chỉ ít lâu sau mẹ tôi chết. Người mẹ xinh đẹp, giàu tình cảm và dễ xúc động đã cho tôi vẻ đẹp và một linh hồn dễ nhạy cảm. Tôi chán ghét trong cái chán ghét của bà, tôi điên cuồng trong cái điên cuồng của bà, giống như một ngọn cỏ không siêu thoát. Một dòng sông mắt thường không trông thấy, bay bay những sợi tơ, đốm lửa, hoa anh túc, tóc dài, xuyên suốt mạch máu ngang dọc tôi và người phụ nữ ấy. Có thể tôi sắp bị cuồng vui và tội lỗi dắt dẫn, cuốn theo dòng chảy của dòng sông số phận. Mùa hè năm tôi thi vào được một trường đại học lớn, bà ngoại tôi qua đời, để lại cho tôi chiếc nhẫn và phần tài sản kha khá như để tỏ lời khen ngợi tôi đã đỗ đại học bước vào ngưỡng cửa vinh quang (Từ lâu tôi dã đổi họ Tôn, họ của bố tôi Tôn Đình Bang, thành họ ông ngoại tôi - Ôn). Bà qua đời, tôi cũng đến ngôi nhà cũ ở phố Hoài Hải, căn gác vẫn còn, chỉ có ký ức của hai người đàn bà đã chết giống như mạng nhện giăng mắc khắp nơi. Tôi cũng ít qua lại với các cô dì, cậu mợ có cái vẻ ưu việt và bất cần đời đặc trưng của kẻ không gặp thời, xa tất cả những cái đó như xa một vườn hoa tàn lụi, vườn hoa này quanh năm đầy những gỗ mục, lá rụng, tóc ướt, mùi long não cũ, mùi của quá khứ. Tóm lại, đời sinh viên của tôi, Ôn Lượng, rất bình thản và ung dung, cho dù được xếp vào loại sinh viên giỏi (chuyên ngành xuất sắc, Anh ngữ và văn học thuộc loại khá), may mắn là kẻ mồ côi, hòa nhã, sống có nội tâm, lễ độ, rất được nữ sinh viên yêu mến. Không phải vì tiền mà tôi tìm việc làm trong dịp nghỉ hè, nhưng tại sao tôi cũng không rõ, có thể vì nghỉ hè quá dài, vô vị, làm suy giảm trí lực chăng. Tôi hút thuốc, mặc chiếc áo sơ-mi ngắn tay và quần bò đã bạc, đi vào cửa nhà ăn. Ở đó có tấm bảng dán đầy quảng cáo, không ít thông tin vừa học vừa làm, nhưng không có công ty máy tính nào mượn người trong thời gian ngắn. Tôi xem những tin tức thuê gia sư, trong đó có một tờ quảng cáo cần một sinh viên máy tính, tốt nhất trình độ từ năm thứ ba trở lên, dạy một học sinh mười ba tuổi vừa tốt nghiệp tiểu học, nếu cần xin liên hệ với trung tâm việc làm của Hội sinh viên. Tôi vứt đầu mẩu thuốc, suy nghĩ, một học sinh tốt nghiệp tiểu học mười ba tuổi, vẫn chưa hết chất trẻ con, là một trong những đứa nhỏ học đòi thời thượng, mặc áo đen bó sát người, kính đen bé tẹo không ở trên sống mũi mà để tận trên đỉnh đầu, vểnh cái mông quần bó chặt chạy xe như bay ngoài phố ấy ư? Vừa nghĩ, vừa phát hiện ra mình đang đi về phía trung tâm dịch vụ. Mọi thủ tục làm rất nhanh chóng, tôi nộp sáu mươi đồng lệ phí giới thiệu, cầm một tấm thẻ ghi rõ số điện thoại và địa chỉ gia chủ. Buổi tối, tôi gọi điện thoại từ trạm điện thoại công cộng trong trường. Nhận điện là tiếng một cô gái, giọng thỏ thẻ, vừa nghe tôi giới thiệu liền đặt máy xuống, tai tôi cảm nhận được những rung động nhẹ nhàng. Bố, bố ơi, nhanh lên nghe điện, nhanh lên, tiếng cô bé gọi. Sau đó là tiềng một người đàn ông trung niên, giọng nói thận trọng và bình thản rất đặc trưng của một nhân viên công sở. Ông tên là Thư, bố đứa bé, cán bộ phòng nhân sự của một doanh nghiệp lớn, mẹ là diễn viên Việt kịch (Ca kịch Triết Giang, rất phổ biến ở vùng Thượng Hải, Triết Giang), hai người đều rất bận, ông nói. Giọng nói và lời lẽ của tôi rõ ràng làm ông ta có cảm tình, thế là ông hẹn thời gian gặp tôi, dặn kỹ tuyến xe công cộng đến chỗ ông, giống như những người Thượng Hải khác, ông thuộc lòng những tuyến xe công cộng của thành phố. Hôm sau tôi lên đường, mặc áo sơ-mi cộc tay vải bông kẻ, do dự về cái nhẫn mặc ngọc đeo trên tay, nhưng rồi vẫn quyết định đeo nó, cho dù cái nhẫn rất con gái. Tôi cảm thấy cái nhân thích hợp với tôihơn. Hơn nữa, cũng để chủ nhà thấy tôi không phải vì tùng tiền, theo đó có nhận thức đúng đắn về việc tôi đi làm gia sư (tôi chỉ muốn làm một việc gì có ích trong những tháng hè) hoặc ít nhất tôi cũng tạo được bầu không khí bình đẳng, tự do để bắt đầu công việc dạy học của tôi, tóm lại đừng coi gia sư này là xoàng để tùy ý can thiệp, sai khiến như vẫn thường thấy. Xe buýt đưa tôi đến phố có ngôi nhà tầng của gia chủ. Tôi lên gác, đứng trước cửa, ấn chuông. Cửa mở, một cô gái, thực tình cũng bình thường thôi, một cô gái thanh tú đặc trưng phương nam, không cao lắm, nhưng dôi chân dài dưới tấm váy ngắn làm mọi người phải chú ý. Cô gái nheo mắt, nheo mắt chừng sáu bảy giây, một nụ cười nở trên môi, không nói gì, quay vào gọi bố, mẹ, thầy giáo đến. Tư thế trấn tĩnh, nhạy cảm, cảnh giác của cô gái tạo cho tôi ấn tượng như đã gặp ở đâu rồi, vì thế tôi hơi giật mình. Phòng khách lát đá hoa cương, mấy chiếc sô-pha bọc vải kẻ chéo trông rất nền nã và rất Tây, trên tủ lạnh là một lọ hoa sen và hoa hồng bằng chất dẻo, máy điều hòa không khí ù ù chạy đưa hơi mát dễ chịu, một chiếc bàn ăn chiếm vị trí không nhỏ. Phải thừa nhận đây là một phòng khách bình thường không có gì đáng chê trách, Thượng Hải có vô số phòng khách tương tự. Ông Thư tướng mạo không có gì nổi bật, đầu hơi hói, đeo kính, cái bụng hơi to. Bà Thư trông điều đà, mặc áo pull đen và quần ta màu nhạt, đúng là bà đã di truyền cặp chân dài cho con gái. Phòng khách treo hai tấm ảnh của bà, một tấm bà mặc trang phục cổ, một tấm nữa ngược lại, vẻ mặt bà trông nhu mì nhưng trễ nải, có thể gọi là gợi cảm, tình cảm giành giật của người phụ nữ trung niên nắm trong tay tôi tia hồi quang cuộc đời. Ông Thư rót nước mát mời tôi trong cái cốc dùng một lần, rồi ngồi vào cái ghế tựa ở cách xa. Bà chủ ngồi bên tôi, nhìn tôi từ đầu đến chân, bà nhìn kỹ cái nhẫn mặt ngọc, ánh mắt tán thưởng, tỏ vẻ thân thiết. Sự thăm dò ấy khiến tôi không thoải mái. Bà bắt đầu nói về cô con gái. Mấy mùa hè trước em nó học dương cầm và Anh ngữ, nhưng ham chơi, không kiên trì, cái gì cũng học một tị, mong rằng lần này em nó sẽ quyết tâm học được những hiểu biết về máy tính. Bà rất biết nói chuyện, giọng nói nhẹ nhàng, cứ như lông vũ quết ngang tai người nghe, tiếng phổ thông pha lẫn phương ngôn rất nặng. Trong lúc bà nói chuyện, ông chồng im lặng, ngồi một góc cách xa, chốc chốc lại gãi lưng, uống nước, toàn thân một màu xám kỳ quái, áo sơ mi màu xám, quần màu tàn thuốc, đôi dép lê màu xám nhạt, các giác quan như dình khói xám (khói bếp hay là khói thuốc hút lén khi vợ vắng nhà), mảng đầu không có tóc giống như một sân bóng bỏ hoang, tàn tạ không hơi người. Bà Thư cũng đã hiểu qua về tôi, thành tích học tập loại giỏi, mạnh khỏe, thích hợp với con trẻ. Tôi nhắc lại không tính thù lao là bao nhiêu chỉ cần công việc có ý nghĩa, làm vui lòng gia chủ. Ông Thư rất hoan nghênh thái độ đó của tôi, ông đồng ý trả thù lao mỗi giờ hai mươi đồng, con số tối thiểu để giữ được thể diện ở một mức nào đó, mỗi tuần hai buổi, mỗi buổi hai tiếng, vào tối thứ sáu và chủ nhật. Trong lúc nói chuyện, cô bé vẫn ngồi một đầu sô-pha, trên tay cầm trò chơi điện tử, miệng nhai gì đó, chốc chốc lại nhìn về phía này. Tất nhiên, bà chỉ giới thiệu tên cô con gái cho tôi. Cái Thư Hân nhà tôi không đến nỗi ngu si, có thể thuộc loại thông minh, mong anh quản lý chặt nó. Rõ ràng cô đã nghe thấy, bĩu môi, mắt chớp chớp, rồi theo yêu cầu của mẹ, cô bỏ cái máy tính đồ chơi xuống, đi đến chỗ tôi. Em chào thầy. Chào em, tôi cười. Cái vẻ lơ đễnh trẻ con, cặp mắt long lanh và nụ cười pha chút hài hước, khiến có cảm giác cô bé này không phải là thứ búp bê trống rỗng. Thông minh, có thể định hướng. Thư Hân ngồi lắc lư trước bàn phím, rất hay gõ nhầm chữ. Ông bố đã có lần hỏi tôi, cháu nó có cần học gõ bàn phím không, học cho biết các vị trí của các con chữ. Tôi rất khách sáo nói khỏi cần, ngoại trừ ông muốn sau này Hân trở thành nhân viên đánh máy chuyên nghiệp. Từ đấy về sau tôi không bị những đề nghị đại loại như thế quấy rầy. Tôi tìm cho Hân một cuốn sách nhập môn máy tính, không dùng đến những tài liệu gia đình chuẩn bị. Tôi còn vạch ra một chương trình, tiết thứ nhất: cấu tạo cơ bản của bàn phím; tiết thứ hai: những hiểu biết cơ bản về phần mềm; tiết thứ ba: sơ qua về chương trình DOS; tiết thứ tư: khởi động DOS và cách sử dụng bàn phím... Cô bé Hân dán chương trình này len tường, hỏi tôi có thể linh hoạt không, ví dụ có lúc muốn chơi. Hân cười, thưa thầy, thầy không mách bố em chứ ạ? Tôi lắc đầu, từ thuở bé tôi rất ghét ai thưa với thầy giáo, tôi nói. Thế thì hay lắm, Hân nghiêng đầu. Thầy bao nhiêu tuổi rồi ạ? Nó đột ngột hỏi. Hai mươi mốt. Tôi trả lời rất thật. Hình như cô bé gật gật đầu, tôi đoán nó đang làm phép trừ, hai người chênh nhau tám tuổi. Thuở bé chắc là thấy hay nghịch lắm nhỉ, đi học có hay nghỉ vặt không? Nó hỏi rất thẳng thắn, vậy mà thầy thi đỗ vào một trường đại học danh tiếng. Tôi cười, tôi không mách đâu, nhưng em phải học thật nghiêm túc, tôi có thể cài một vài trò chơi vào máy tính. Ôi! Nó đưa một tay để ngay dưới mũi tôi, thầy với em ngoắc tay nào, đúng thế nhé! Mười lắm phút nghỉ giữa buổi chúng tôi ăn bánh ngọt, trái cây, có lúc ông Thư làm món gì đó rất ngon, ví dụ bánh tôm bóc nõn, chè đỗ xanh. Hôm nào bà Thư không phải biểu diễn hoặc tập vở, bà ngồi ở sô-pha sửa móng tay, lật giở những trang tạp chí thời trang. Máy thu hình mở rất bé, trên truyền hình nếu chiếu phim gì đó, thể nào bà cũng khe khẽ hát theo, tay áo cuộn lên như con rắn, trông hoa cả mắt, "tĩnh lặng như cung hằng nga, thê lương, lạnh lùng...". Thời trẻ, bà ngoại tôi cũng rất thích ca kịch tây, về già lại càng thích các môn nghệ thuật quốc hồn, quốc túy. Bà Thư hình như rất thích tôi làm một người bình phẩm nhiệt tình, thỉnh thoảng tôi làm ra vẻ công bằng khen vài câu. Mỗi lần như thế, bé Hân lại vểnh tai, liếc nhìn. Một lần, tôi chào bà để về phòng của Hân, Hân nháy mắt tỏ ra không bằng lòng với tôi, nó đang định nói gì thì nhó ra cửa vẫn mở, vội đứng dậy đóng cửa. Thầy thích mẹ em rồi à? Nó hỏi. Tôi giật mình, hỏi lại, thích mẹ em? Hân xua xua tay, thôi, thôi, em nói đùa đấy, mẹ em già rồi, thầy đâu thích. Tôi không nói gì, nghĩ đằng sau câu nói ấy có màu sắc tình cảm, là ám hiệu tâm lý nào đó. Tôi lật giở trang thứ 58, bỗng phát hiện cô bé không chú ý nhìn vào trang sách. Muốn chơi một lúc chứ gì? Tôi hỏi. Ứ, không thèm! Cô bé đứng dậy, đến bên giá sách. Nói là giá sách, đúng hơn là giá để thức ăn. Trên giá ngoài một vài cuốn tạp chí nhi đồng, tranh liên hoàn, vở làm bài tập ở nhà, còn nữa là thức ăn, kẹo socola, bánh pudding, bánh quy, cả lạc rang, kẹo sữa, bỏng ngô... Đúng là một cô bé tham ăn (nhưng răng trắng như ngọc, cô bé thích xem quảng cáo kem đánh răng Colgate "sáng khoái, mát lạnh, lượng tiêu thụ hàng đầu"), nhưng ở độ tuổi này vẫn chưa phải lo giảm béo. Hân lấy ra một hộp cocola hạnh nhân, rồi ôm vào lòng chú gấu nâu ở đầu giường, chú gấu bà mẹ mua hồi đi biểu diễn ở Ôxtrâylia, rất tự nhiên gác một chân lên ghế của tôi, đá đưa. Tôi cảm thấy dưới chỗ ngồi của tôi đang động đậy, trong lòng không biết cái cô bé này đang nghĩ gì đây, đôi mắt có hàng mi dài che rợp nhìn tôi, một anh chàng nào đây? Tôi ngồi, vô tình lấy tay phải xoay xoay cái nhẫn trên ngón tay trái, trong giây lát tôi cảm thấy mình như một con nhện rơi vào tấm lưới lạ. Trẻ con bây giờ hiểu biết sớm lắm, lại thông minh nữa. Hân đưa cho tôi cái kẹo, tôi lắc đầu, cô bé quan sát vẻ mặt tôi, rồi đậy nắp hộp kẹo lại. Từ nay em không dám nói đùa với thầy nữa, Hân nói khẽ. Tôi ho lên một tiếng, thôi nhé, bây giờ vào học.
Trên đầu ngón tay, trên nỗi đau màu hạt dẻ và tiếng kêu se sẽ, vào lúc này đang là giữa đêm đen. Căn phòng rất hẹp, những hạt bụi lửng lơ giữa bốn bề bóng tối, góc tường tỏa mùi ẩm mốc lẫn với mùi nước đái chuột lưu cữu nhiều năm. Tôi vẫn mặc chiếc áo pull và quần bò. Bây giờ thì bộ đồ này đã bẩn, dính máu, không rõ đây là máu muỗi hay vẫn nguyên là máu từ đầu tôi chảy ra. Bốn bề yên tĩnh có thể đoán được lúc này là buổi tối. Tôi nằm trên chiếc giường gỗ chật hẹp, như con bò biển được sóng dạt lên bờ, cái chết đến gần mà không có cách nào giẫy giụa thoát ra nổi. Ngoài hành lang thỉnh thoảng lại có tiếng chân bước nặng nề của cảnh sát, có cả tiếng nói chuyện, tưởng chừng hôm nay lại đi truy quét hang ổ đen của những tiệm cắt tóc, vậy là các báo của thành phố sáng hôm sau sẽ dành ba, bốn trang chạy "tít" đại loại như "tấn công mạnh mẽ" ở vị trí nổi bật nhất như vẫn thường thấy. Tư duy của tôi rất rành mạch, vẫn nhạy cảm với tất cả những gì dù nhỏ nhất đang xảy ra ở chung quanh. Tôi vẫn cảm thấy rất rõ đầu đau ghê gớm. Vết thương ở bên trái tuy đã kín miệng nhưng đêm đêm vẫn nhức nhối, tựa hồ có bàn tay đang bóp nặn sục sạo từ trong đầu ra ngoài. Đó là bàn tay của Hân, móng tay nhọn, mu bàn tay có bốn xoáy đồng tiền mềm mại. Hân bảo đó là "phúc tướng". Lúc đi dưới mưa, Hân vẫn khép chặt năm ngón tay đưa ra ngoài ô, để bốn xoáy đồng tiền đựng đầy nước long lanh. Nước mưa long lanh, long lanh sáng như mắt mèo, cả nụ cười dịu dàng rực rỡ như ánh hồng bên khóe miệng, những bức tranh trong ký ức với trực cảm nhẹ như lông hồng cứ thế giao hòa hiện lên nhưng lại như tấm bia mộ đè nặng đầu tôi. Tôi đang bị hành hạ bởi cảm giác dịu dàng, lạnh lẽo, hoang tưởng, cuồng vui, tội lỗi, như tro tàn tan biến trong đêm tối vô hình. Hân chết. Chết khi chuyến "du lịch chia tay" của chúng tôi sắp kết thúc, trên con đường ướt át của miền nam, chiếc xe máy màu đen đâm vào đuôi chiếc xe Audi. Mấy con bướm bay bay trong ánh đèn của xe cảnh sát, bốn chung quanh nồng nặc mùi xăng và mùi ngòn ngọt của huyết tương. Hân nằm kia, như con búp bê vỡ vụn, một tay đặt lên khuôn mặt bị thương, che mắt bên trái, tưởng như che được sự sợ hãi vào lúc cái chết đến gần, có thể che chắn được tai nạn ập đến. Bàn tay trắng trẻo, bàn tay không còn sức lực, dẫu là thiên sứ cũng không ngăn nổi cái đau đớn trẻ con kia. Tôi mở cặp mắt bị che máu lấp, nhìn thấy tất cả nhưng vẫn chưa đi vào ý thức tôi, tựa như được ngụy trang bằng cảm giác xa lạ của ác mộng, đại não tôi loại tất cả những hình ảnh đó, cho đến khi một cảnh sát đến gần, cho đến khi tôi và Hân cùng được đưa vào xe cấp cứu lạnh lẽo. Đêm tối mênh mông như thác lũ nuốt chửng sinh mệnh chúng tôi, đóa hoa của tôi, tội lỗi và nỗi sợ hãi của tôi. Tôi xếp tất cả những thứ đó vào huyệt mộ tối tăm đã được đào sẵn. Hân chết, tôi cũng chết Chuyện xảy ra vào mùa hè năm nay. Tôi học xong các phần của chương trình năm thứ ba về máy tính, muốn tìm một việc làm. Không phải tôi thiếu tiền, tài sản của bà ngoại để lại tạm đủ cho cuộc sống tằn tiện của tôi, ít nhất trong vòng một năm không phải băn khoăn gì về sinh kế. Bố tôi là một người lái xe tải hạng nặng, ông đã lấy vợ hai, sinh con ở Cáp Nhĩ Tân. Trong ấn tượng tôi, ông là người cao lớn, râu quai nón, thích uống rượu, mặc quần áo lao động bẩn thỉu, lái xe chạy rất nhanh nhưng chưa bao giờ xảy ra chuyện đáng tiếc, là người đẹp trai, cánh con gái rất thích, lúc dịu dàng như một chú mèo, lúc nóng nảy đập phá cả lò sưởi, bát đĩa. Ông dạy tôi biết đứng để lái xe, biết mở khóa cửa xe. Mẹ tôi, một thanh niên trí thức đưa tôi từ Cáp Nhĩ Tân về Thượng Hải năm tôi hai tuổi, kiếm được một căn gác bảy mét vuông trong gia đình bà ngoại đông đúc và bắt đầu cuộc sống mới yên ổn giống như một con sên. Bà ngoại, một người giấu vẻ mặt mình trong những nếp nhăn căng chùng là thiên kim tiểu thư của một chủ ngân hàng lớn một nhà đại từ thiện lừng lẫy ở bến Thượng Hải thuở xưa. Trên bàn tay mềm nhũn đến kinh người của bà là chiếc nhẫn mặt ngọc đẹp kỳ lạ. Vẻ ngoài của bà rất uy nghiêm, lúc nào cũng thở dài thườn thượt, các cô chú trong gia đình cũng nói chuyện, than thở bằng giọng đặc trưng của những quý tộc sa cơ lỡ vận. Người mẹ dịu hiền, xinh đẹp của tôi về Thượng Hải được ba năm thì qua đời bởi bệnh ung thư phổi. Hồi ấy, bà tìm được một việc tạp dịch trong một đoàn ca múa của Thượng Hải, mua sắm trang phục, trông coi quần áo, mỹ phẩm, chuẩn bị bữa ăn đêm, quét nhà, có lần đỡ đẻ cho một diễn viên trên đường cùng đoàn đi biểu diễn ở địa phương, chị diễn viên này cùng chồng trình diễn tiểu phẩm vui, chị trong vai người phụ nữ mang bầu. Mẹ tôi rất mệt mỏi với công việc, nhưng trong đoàn có một anh kém mẹ tôi bốn tuổi rất yêu mẹ tôi, mẹ tôi cũng bị mối tình này mê hoặc, khôi phục vẻ đẹp chói lọi và sinh khí vốn có, cho đến ngày gia đình anh buộc anh phải bỏ mẹ tôi, ra Hồng Công sống với ông cậu. Mẹ tôi nhanh chóng lâm bệnh và sớm rời bỏ tôi. Tôi vẫn nhớ người mẹ khốn khổ của tôi nằm trên giường bệnh lén hút thuốc, hút hết điếu nọ đến điếu kia, vẻ mặt bà tỏ ra yên tĩnh, mệt mỏi, người bà tỏa mùi thơm kỳ lạ lẫn với mùi thuốc, bay qua giường, bay lên trần nhà, bay ra ngoài cửa sổ, đó là mùi vị của chết chóc. Một tay mẹ tôi kẹp điếu thuốc, một tay nữa ôm tôi vào ngực, nhẹ nhàng vuốt tóc, vuốt tai tôi, bà nói con rất đẹp trai, rất giống bố con, cũng giống mẹ, con hãy gắng học thật giỏi, học thật thông minh, giữ mối liên hệ với bố con, có thể một lúc nào đó bố sẽ giúp con tìm một công việc thích hợp, con tìm một bạn gái ngoan ngoãn, sạch sẽ là được, không nhất thiết phải đẹp. Mẹ tôi cười ngây dại, rồi ho, mộng mị gọi tên người tình đã bỏ đi Hồng Công. Chỉ ít lâu sau mẹ tôi chết. Người mẹ xinh đẹp, giàu tình cảm và dễ xúc động đã cho tôi vẻ đẹp và một linh hồn dễ nhạy cảm. Tôi chán ghét trong cái chán ghét của bà, tôi điên cuồng trong cái điên cuồng của bà, giống như một ngọn cỏ không siêu thoát. Một dòng sông mắt thường không trông thấy, bay bay những sợi tơ, đốm lửa, hoa anh túc, tóc dài, xuyên suốt mạch máu ngang dọc tôi và người phụ nữ ấy. Có thể tôi sắp bị cuồng vui và tội lỗi dắt dẫn, cuốn theo dòng chảy của dòng sông số phận. Mùa hè năm tôi thi vào được một trường đại học lớn, bà ngoại tôi qua đời, để lại cho tôi chiếc nhẫn và phần tài sản kha khá như để tỏ lời khen ngợi tôi đã đỗ đại học bước vào ngưỡng cửa vinh quang (Từ lâu tôi dã đổi họ Tôn, họ của bố tôi Tôn Đình Bang, thành họ ông ngoại tôi - Ôn). Bà qua đời, tôi cũng đến ngôi nhà cũ ở phố Hoài Hải, căn gác vẫn còn, chỉ có ký ức của hai người đàn bà đã chết giống như mạng nhện giăng mắc khắp nơi. Tôi cũng ít qua lại với các cô dì, cậu mợ có cái vẻ ưu việt và bất cần đời đặc trưng của kẻ không gặp thời, xa tất cả những cái đó như xa một vườn hoa tàn lụi, vườn hoa này quanh năm đầy những gỗ mục, lá rụng, tóc ướt, mùi long não cũ, mùi của quá khứ. Tóm lại, đời sinh viên của tôi, Ôn Lượng, rất bình thản và ung dung, cho dù được xếp vào loại sinh viên giỏi (chuyên ngành xuất sắc, Anh ngữ và văn học thuộc loại khá), may mắn là kẻ mồ côi, hòa nhã, sống có nội tâm, lễ độ, rất được nữ sinh viên yêu mến. Không phải vì tiền mà tôi tìm việc làm trong dịp nghỉ hè, nhưng tại sao tôi cũng không rõ, có thể vì nghỉ hè quá dài, vô vị, làm suy giảm trí lực chăng. Tôi hút thuốc, mặc chiếc áo sơ-mi ngắn tay và quần bò đã bạc, đi vào cửa nhà ăn. Ở đó có tấm bảng dán đầy quảng cáo, không ít thông tin vừa học vừa làm, nhưng không có công ty máy tính nào mượn người trong thời gian ngắn. Tôi xem những tin tức thuê gia sư, trong đó có một tờ quảng cáo cần một sinh viên máy tính, tốt nhất trình độ từ năm thứ ba trở lên, dạy một học sinh mười ba tuổi vừa tốt nghiệp tiểu học, nếu cần xin liên hệ với trung tâm việc làm của Hội sinh viên. Tôi vứt đầu mẩu thuốc, suy nghĩ, một học sinh tốt nghiệp tiểu học mười ba tuổi, vẫn chưa hết chất trẻ con, là một trong những đứa nhỏ học đòi thời thượng, mặc áo đen bó sát người, kính đen bé tẹo không ở trên sống mũi mà để tận trên đỉnh đầu, vểnh cái mông quần bó chặt chạy xe như bay ngoài phố ấy ư? Vừa nghĩ, vừa phát hiện ra mình đang đi về phía trung tâm dịch vụ. Mọi thủ tục làm rất nhanh chóng, tôi nộp sáu mươi đồng lệ phí giới thiệu, cầm một tấm thẻ ghi rõ số điện thoại và địa chỉ gia chủ. Buổi tối, tôi gọi điện thoại từ trạm điện thoại công cộng trong trường. Nhận điện là tiếng một cô gái, giọng thỏ thẻ, vừa nghe tôi giới thiệu liền đặt máy xuống, tai tôi cảm nhận được những rung động nhẹ nhàng. Bố, bố ơi, nhanh lên nghe điện, nhanh lên, tiếng cô bé gọi. Sau đó là tiềng một người đàn ông trung niên, giọng nói thận trọng và bình thản rất đặc trưng của một nhân viên công sở. Ông tên là Thư, bố đứa bé, cán bộ phòng nhân sự của một doanh nghiệp lớn, mẹ là diễn viên Việt kịch (Ca kịch Triết Giang, rất phổ biến ở vùng Thượng Hải, Triết Giang), hai người đều rất bận, ông nói. Giọng nói và lời lẽ của tôi rõ ràng làm ông ta có cảm tình, thế là ông hẹn thời gian gặp tôi, dặn kỹ tuyến xe công cộng đến chỗ ông, giống như những người Thượng Hải khác, ông thuộc lòng những tuyến xe công cộng của thành phố. Hôm sau tôi lên đường, mặc áo sơ-mi cộc tay vải bông kẻ, do dự về cái nhẫn mặc ngọc đeo trên tay, nhưng rồi vẫn quyết định đeo nó, cho dù cái nhẫn rất con gái. Tôi cảm thấy cái nhân thích hợp với tôihơn. Hơn nữa, cũng để chủ nhà thấy tôi không phải vì tùng tiền, theo đó có nhận thức đúng đắn về việc tôi đi làm gia sư (tôi chỉ muốn làm một việc gì có ích trong những tháng hè) hoặc ít nhất tôi cũng tạo được bầu không khí bình đẳng, tự do để bắt đầu công việc dạy học của tôi, tóm lại đừng coi gia sư này là xoàng để tùy ý can thiệp, sai khiến như vẫn thường thấy. Xe buýt đưa tôi đến phố có ngôi nhà tầng của gia chủ. Tôi lên gác, đứng trước cửa, ấn chuông. Cửa mở, một cô gái, thực tình cũng bình thường thôi, một cô gái thanh tú đặc trưng phương nam, không cao lắm, nhưng dôi chân dài dưới tấm váy ngắn làm mọi người phải chú ý. Cô gái nheo mắt, nheo mắt chừng sáu bảy giây, một nụ cười nở trên môi, không nói gì, quay vào gọi bố, mẹ, thầy giáo đến. Tư thế trấn tĩnh, nhạy cảm, cảnh giác của cô gái tạo cho tôi ấn tượng như đã gặp ở đâu rồi, vì thế tôi hơi giật mình. Phòng khách lát đá hoa cương, mấy chiếc sô-pha bọc vải kẻ chéo trông rất nền nã và rất Tây, trên tủ lạnh là một lọ hoa sen và hoa hồng bằng chất dẻo, máy điều hòa không khí ù ù chạy đưa hơi mát dễ chịu, một chiếc bàn ăn chiếm vị trí không nhỏ. Phải thừa nhận đây là một phòng khách bình thường không có gì đáng chê trách, Thượng Hải có vô số phòng khách tương tự. Ông Thư tướng mạo không có gì nổi bật, đầu hơi hói, đeo kính, cái bụng hơi to. Bà Thư trông điều đà, mặc áo pull đen và quần ta màu nhạt, đúng là bà đã di truyền cặp chân dài cho con gái. Phòng khách treo hai tấm ảnh của bà, một tấm bà mặc trang phục cổ, một tấm nữa ngược lại, vẻ mặt bà trông nhu mì nhưng trễ nải, có thể gọi là gợi cảm, tình cảm giành giật của người phụ nữ trung niên nắm trong tay tôi tia hồi quang cuộc đời. Ông Thư rót nước mát mời tôi trong cái cốc dùng một lần, rồi ngồi vào cái ghế tựa ở cách xa. Bà chủ ngồi bên tôi, nhìn tôi từ đầu đến chân, bà nhìn kỹ cái nhẫn mặt ngọc, ánh mắt tán thưởng, tỏ vẻ thân thiết. Sự thăm dò ấy khiến tôi không thoải mái. Bà bắt đầu nói về cô con gái. Mấy mùa hè trước em nó học dương cầm và Anh ngữ, nhưng ham chơi, không kiên trì, cái gì cũng học một tị, mong rằng lần này em nó sẽ quyết tâm học được những hiểu biết về máy tính. Bà rất biết nói chuyện, giọng nói nhẹ nhàng, cứ như lông vũ quết ngang tai người nghe, tiếng phổ thông pha lẫn phương ngôn rất nặng. Trong lúc bà nói chuyện, ông chồng im lặng, ngồi một góc cách xa, chốc chốc lại gãi lưng, uống nước, toàn thân một màu xám kỳ quái, áo sơ mi màu xám, quần màu tàn thuốc, đôi dép lê màu xám nhạt, các giác quan như dình khói xám (khói bếp hay là khói thuốc hút lén khi vợ vắng nhà), mảng đầu không có tóc giống như một sân bóng bỏ hoang, tàn tạ không hơi người. Bà Thư cũng đã hiểu qua về tôi, thành tích học tập loại giỏi, mạnh khỏe, thích hợp với con trẻ. Tôi nhắc lại không tính thù lao là bao nhiêu chỉ cần công việc có ý nghĩa, làm vui lòng gia chủ. Ông Thư rất hoan nghênh thái độ đó của tôi, ông đồng ý trả thù lao mỗi giờ hai mươi đồng, con số tối thiểu để giữ được thể diện ở một mức nào đó, mỗi tuần hai buổi, mỗi buổi hai tiếng, vào tối thứ sáu và chủ nhật. Trong lúc nói chuyện, cô bé vẫn ngồi một đầu sô-pha, trên tay cầm trò chơi điện tử, miệng nhai gì đó, chốc chốc lại nhìn về phía này. Tất nhiên, bà chỉ giới thiệu tên cô con gái cho tôi. Cái Thư Hân nhà tôi không đến nỗi ngu si, có thể thuộc loại thông minh, mong anh quản lý chặt nó. Rõ ràng cô đã nghe thấy, bĩu môi, mắt chớp chớp, rồi theo yêu cầu của mẹ, cô bỏ cái máy tính đồ chơi xuống, đi đến chỗ tôi. Em chào thầy. Chào em, tôi cười. Cái vẻ lơ đễnh trẻ con, cặp mắt long lanh và nụ cười pha chút hài hước, khiến có cảm giác cô bé này không phải là thứ búp bê trống rỗng. Thông minh, có thể định hướng. Thư Hân ngồi lắc lư trước bàn phím, rất hay gõ nhầm chữ. Ông bố đã có lần hỏi tôi, cháu nó có cần học gõ bàn phím không, học cho biết các vị trí của các con chữ. Tôi rất khách sáo nói khỏi cần, ngoại trừ ông muốn sau này Hân trở thành nhân viên đánh máy chuyên nghiệp. Từ đấy về sau tôi không bị những đề nghị đại loại như thế quấy rầy. Tôi tìm cho Hân một cuốn sách nhập môn máy tính, không dùng đến những tài liệu gia đình chuẩn bị. Tôi còn vạch ra một chương trình, tiết thứ nhất: cấu tạo cơ bản của bàn phím; tiết thứ hai: những hiểu biết cơ bản về phần mềm; tiết thứ ba: sơ qua về chương trình DOS; tiết thứ tư: khởi động DOS và cách sử dụng bàn phím... Cô bé Hân dán chương trình này len tường, hỏi tôi có thể linh hoạt không, ví dụ có lúc muốn chơi. Hân cười, thưa thầy, thầy không mách bố em chứ ạ? Tôi lắc đầu, từ thuở bé tôi rất ghét ai thưa với thầy giáo, tôi nói. Thế thì hay lắm, Hân nghiêng đầu. Thầy bao nhiêu tuổi rồi ạ? Nó đột ngột hỏi. Hai mươi mốt. Tôi trả lời rất thật. Hình như cô bé gật gật đầu, tôi đoán nó đang làm phép trừ, hai người chênh nhau tám tuổi. Thuở bé chắc là thấy hay nghịch lắm nhỉ, đi học có hay nghỉ vặt không? Nó hỏi rất thẳng thắn, vậy mà thầy thi đỗ vào một trường đại học danh tiếng. Tôi cười, tôi không mách đâu, nhưng em phải học thật nghiêm túc, tôi có thể cài một vài trò chơi vào máy tính. Ôi! Nó đưa một tay để ngay dưới mũi tôi, thầy với em ngoắc tay nào, đúng thế nhé! Mười lắm phút nghỉ giữa buổi chúng tôi ăn bánh ngọt, trái cây, có lúc ông Thư làm món gì đó rất ngon, ví dụ bánh tôm bóc nõn, chè đỗ xanh. Hôm nào bà Thư không phải biểu diễn hoặc tập vở, bà ngồi ở sô-pha sửa móng tay, lật giở những trang tạp chí thời trang. Máy thu hình mở rất bé, trên truyền hình nếu chiếu phim gì đó, thể nào bà cũng khe khẽ hát theo, tay áo cuộn lên như con rắn, trông hoa cả mắt, "tĩnh lặng như cung hằng nga, thê lương, lạnh lùng...". Thời trẻ, bà ngoại tôi cũng rất thích ca kịch tây, về già lại càng thích các môn nghệ thuật quốc hồn, quốc túy. Bà Thư hình như rất thích tôi làm một người bình phẩm nhiệt tình, thỉnh thoảng tôi làm ra vẻ công bằng khen vài câu. Mỗi lần như thế, bé Hân lại vểnh tai, liếc nhìn. Một lần, tôi chào bà để về phòng của Hân, Hân nháy mắt tỏ ra không bằng lòng với tôi, nó đang định nói gì thì nhó ra cửa vẫn mở, vội đứng dậy đóng cửa. Thầy thích mẹ em rồi à? Nó hỏi. Tôi giật mình, hỏi lại, thích mẹ em? Hân xua xua tay, thôi, thôi, em nói đùa đấy, mẹ em già rồi, thầy đâu thích. Tôi không nói gì, nghĩ đằng sau câu nói ấy có màu sắc tình cảm, là ám hiệu tâm lý nào đó. Tôi lật giở trang thứ 58, bỗng phát hiện cô bé không chú ý nhìn vào trang sách. Muốn chơi một lúc chứ gì? Tôi hỏi. Ứ, không thèm! Cô bé đứng dậy, đến bên giá sách. Nói là giá sách, đúng hơn là giá để thức ăn. Trên giá ngoài một vài cuốn tạp chí nhi đồng, tranh liên hoàn, vở làm bài tập ở nhà, còn nữa là thức ăn, kẹo socola, bánh pudding, bánh quy, cả lạc rang, kẹo sữa, bỏng ngô... Đúng là một cô bé tham ăn (nhưng răng trắng như ngọc, cô bé thích xem quảng cáo kem đánh răng Colgate "sáng khoái, mát lạnh, lượng tiêu thụ hàng đầu"), nhưng ở độ tuổi này vẫn chưa phải lo giảm béo. Hân lấy ra một hộp cocola hạnh nhân, rồi ôm vào lòng chú gấu nâu ở đầu giường, chú gấu bà mẹ mua hồi đi biểu diễn ở Ôxtrâylia, rất tự nhiên gác một chân lên ghế của tôi, đá đưa. Tôi cảm thấy dưới chỗ ngồi của tôi đang động đậy, trong lòng không biết cái cô bé này đang nghĩ gì đây, đôi mắt có hàng mi dài che rợp nhìn tôi, một anh chàng nào đây? Tôi ngồi, vô tình lấy tay phải xoay xoay cái nhẫn trên ngón tay trái, trong giây lát tôi cảm thấy mình như một con nhện rơi vào tấm lưới lạ. Trẻ con bây giờ hiểu biết sớm lắm, lại thông minh nữa. Hân đưa cho tôi cái kẹo, tôi lắc đầu, cô bé quan sát vẻ mặt tôi, rồi đậy nắp hộp kẹo lại. Từ nay em không dám nói đùa với thầy nữa, Hân nói khẽ. Tôi ho lên một tiếng, thôi nhé, bây giờ vào học.
TÌNH YÊU
Thật là như thế.
Có một cô gái con nhà khá giả ở một thôn trang nọ, cô đẹp, có rất nhiều người đến mai mối, nhưng chưa có đám nào thành công. Năm đó cô chỉ cỡ chừng muời lăm, mười sáu, vào một buổi tối mùa xuân, cô đứng trước cổng sau nhà, tay vịn cành hoa đào. Cô nhớ chiếc áo cô mặc là một chiếc áo màu ánh trăng. Chàng thanh niên sống ở ngôi nhà đối diện và cô đã gặp nhau vài lần, nhưng chưa từng chào hỏi nhau. Chàng trai đi về phía cô, cách không xa mấy thì đứng lại, khẽ khàng hỏi một câu: “Ồ, bạn cũng ở đây à?”. Cô không nói gì, chàng trai cũng không nói thêm gì nữa, đứng thêm một lúc, rồi ai đi đường nấy.
Chỉ có thế thôi.
Sau đó cô gái ấy bị một người họ hàng lừa đi, đem bán ở một huyện xa làm thiếp, rồi lại bị mua đi bán lại vài lần, trải qua vô số thăng trầm, khi già rồi vẫn nhớ câu chuyện ngày xưa ấy, thường hay nhắc lại, trong buổi tối mùa xuân ấy, dưới cây hoa đào trước cổng sau nhà, chàng thanh niên ấy.
Gặp người mà bạn đã gặp trong ngàn vạn người xa lạ, trong ngàn vạn năm, trong vô biên và hoang lạnh thời gian, không sớm một bước, cũng không muộn một bước, mà vừa kịp lúc, rồi cũng chẳng có lời nào khác để nói, chỉ khẽ khàng hỏi một câu: “Ồ, bạn cũng ở đây à?”.
“Tình yêu” rút từ tập tản văn Lưu ngôn, xuất bản năm 1944 tại Thượng Hải.
Trần Trúc Ly dịch
---------------------- . -------------------------------
'Sắc giới' tái sinh nhà văn Trương Ái Linh
Cuộc săn lùng tác phẩm của Trương Ái Linh - nữ tiểu thuyết gia được yêu thích nhất tại Trung Quốc thế kỷ 20 - đang lên đến đỉnh của một cơn sốt chưa có dấu hiệu giảm nhiệt. Sự hồi sinh này bùng phát mạnh mẽ khi phim "Sắc giới" chuyển thể từ truyện ngắn của bà làm nóng các rạp chiếu phim trên thế giới.
Đĩa lậu phim Sắc giới của đạo diễn Lý An đã len lỏi tới mọi ngóc ngách ở Thượng Hải và Bắc Kinh. Nhưng khán giả Trung Quốc đại lục vẫn hối hả bay sang Hong Kong để được thưởng thức bộ phim một cách trọn vẹn sau khi đã xem bản bị cắt xén qua khâu kiểm duyệt trong nước. Một cuộc giằng co cũng dấy lên sôi nổi giữa Nhà xuất bản Đài Loan Crown - đơn vị giữ bản quyền toàn bộ tác phẩm của Ái Linh - với giới làm sách Trung Quốc, khi có hơn chục nhà xuất bản đại lục cùng hiệp lực đặt ra nghi ngờ về quyền sở hữu tác quyền của Crown và tính hợp pháp của bản di chúc của nhà văn.
Những ai không đủ điều kiện sang Hong Kong cũng có cơ hội bù đắp sự thua thiệt của mình bằng cách chen chân đến nhà hát, xem vở kịch chuyển thể từ Red Rose, White Rose - một tiểu thuyết khác của Trương Ái Linh, do đạo diễn Tian Qinxin dàn dựng. Truyện xoay quanh Zhenbao, một chàng trai trẻ vừa trở về Thượng Hải sau nhiều năm học tập ở Anh. Anh đem lòng yêu say đắm cô bạn xinh đẹp Red Rose nhưng vì mẹ nên buộc phải cưới cô gái khác là White Rose. Trương Ái Linh đưa ra một kết luận, mỗi người đàn ông đều ít nhất một lần trong đời phải đối mặt với tình huống tương tự. Và chọn con đường nào cũng không tìm được hạnh phúc. Nếu cưới Red Rose, hôn nhân trở thành "vệt máu của con muỗi chết dính lại trên tường". Còn nếu cưới White Rose, cuộc sống gia đình sẽ là "một hột cơm bầy nhầy dính trên quần áo".
Trương Ái Linh (1920-95) được coi là nhà văn của phụ nữ. Truyện của bà đầy ắp những đam mê tình yêu, sự ngoại tình, bội tín, những trái tim tan vỡ của con người thuộc tầng lớp trung lưu ở Thượng Hải trước cách mạng. Bà viết tiểu thuyết đầu tay từ khi mới 12 tuổi, xuất bản Red Rose, White Rose ở tuổi 24 và nổi tiếng với phát biểu: "Chúng ta nên nổi tiếng càng sớm càng tốt. Nếu danh vọng đến muộn, sự hân hoan sẽ không được trọn vẹn".
Sắc giới là câu chuyện về một nhóm sinh viên trong cuộc kháng chiến chống Nhật của người dân Trung Quốc. Vương Giai Chi - một cô gái xinh đẹp - nhận nhiệm vụ ám sát một tên Hán gian. Để quyến rũ kẻ địch, Giai Chi đã phải học cách làm tình với người bạn trong nhóm. Nhưng sau nhiều lần ân ái với kẻ phản bội, Giai Chi rút cục đem lòng yêu kẻ thù. Truyện chỉ dài khoảng 10 nghìn chữ, nhưng nhà văn đã phải viết đi viết lại trong vòng 20 năm. Bộ phim chuyển thể từ tác phẩm, do Lý An đạo diễn đoạt giải Phim xuất sắc tại giải Kim Mã 2007, giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice hồi tháng 9 và gây xôn xao dư luận với những cảnh sex quá nóng bỏng.
Cuộc đời nhà văn Trương Ái Linh cũng bi kịch không kém những nhân vật được miêu tả trong các tác phẩm. Ái Linh sinh năm 1920 tại Thượng Hải trong một gia đình thế gia vọng tộc. Năm nhà văn lên 5 tuổi, mẹ bà sang Mỹ, sau khi bị chồng phản bội và ngang nhiên sống với một a hoàn. Cha của Ái Linh về sau trở thành kẻ nghiện ngập. Mẹ bà trở về Trung Quốc, khuyên chồng từ bỏ người vợ lẽ và đoạn tuyệt với ma túy. Nhưng cuộc hôn nhân giữa hai người vẫn không tránh khỏi tan vỡ. Tuổi thơ đầy đau khổ đã để lại trong trang văn Trương Ái Linh những dư âm bi quan, tuyệt vọng.
Năm lên 8 tuổi, Trương Ái Linh đã bắt đầu đọc Hồng Lâu Mộng. 4 năm sau, bà viết tiểu thuyết đầu tay.
Trương gặp người chồng đầu tiên Hồ Lan Thành năm 1943. Họ kết hôn một năm sau đó, Nhà văn yêu chồng một cách say đắm, dù ông từng có một đời vợ và là kẻ phản bội thân Nhật. Năm 1945, khi phát xít Nhật bị đánh bại, Hồ Lan Thành chạy đến Ôn Châu và sống với một người đàn bà khác. Ái Linh vô cùng đau khổ, nhưng chỉ khi tìm gặp được người chồng bội bạc, bà mới nhận ra, cuộc hôn nhân của mình là không thể nào cứu vãn. Họ ly dị năm 1947.
Vào những năm 1950, Trương đến Hong Kong và sau đó sang Mỹ định cư. Kể từ đó, bà không trở lại Trung Quốc một lần nào nữa. Năm 1956, nhà văn kết hôn lần thứ hai với nhà biên kịch Mỹ Ferdinand Reyer. Reyer bị liệt sau một tai nạn vào năm 1961. Năm 1967, ông qua đời. Từ đó, nhà văn sống nép mình và chết một cách lặng lẽ trong một căn hộ đi thuê ở Los Angeles vào 1995.
Sau cách mạng, tác phẩm của Trương Ái Linh bị cấm tại Trung Quốc suốt một thời gian dài. Bà chỉ được đọc lại trong những thập kỷ gần đây.
"Tác phẩm của Trương Ái Linh ngày càng trở nên cuốn hút, vì chúng không liên quan đến chính trị, đến chủ nghĩa dân tộc. Đó là những câu chuyện về con người cá nhân", đạo diễn Tian Qinxin nhận xét.
------------------------- . ---------------------------
Trương Ái Linh (1920-1995) là một kỳ nữ trên văn đàn Trung Quốc cận đại, trải qua rất nhiều thăng trầm trong cả đời sống lẫn văn nghiệp. Trong gần mười năm trở lại đây, Trương lại trở thành một hiện tượng trong đời sống nghiên cứu văn học Trung Quốc. Các tiểu thuyết của Trương cũng như chính cuộc đời bà liên tục được chuyển thể thành phim truyện, kịch nói, phim truyền hình, tạo nên một cơn sốt Trương Ái Linh ở cả Trung Quốc, Hong Kong và Đài Loan. Nhà phê bình văn học Hạ Chí Thanh trong cuốn “Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc đương đại” đánh giá Trương là “một trong những tác gia vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc”. Một tạp chí nghiên cứu văn học tại Hong Kong xếp Trương vào một trong số năm nhà văn có ảnh hưởng nhất trong đời sống văn học Trung Quốc thế kỷ 20, bên cạnh những tên tuổi như Lỗ Tấn, Mao Thuẫn, Thẩm Tùng Văn...
Trương bắt đầu viết và được đăng trên một số tạp chí cũng như tập san của trường từ năm 1936 khi còn học trung học tại Hong Kong, nhưng phải đến năm 1942 khi một loạt truyện ngắn, tản văn và tiểu thuyết của Trương được đăng liên tục trên một số tạp chí lớn ở Thượng Hải, Trương mới thực sự trở thành một hiện tượng trong đời sống văn học. Năm 1952, Trương di cư sang Hong Kong. Ba năm sau, bà chuyển sang định cư ở Mỹ, từ đó sống một cuộc đời ẩn dật, lẩn tránh báo giới và từ chối mọi lời đề nghị phỏng vấn của các đài truyền hình. Các tác phẩm của Trương thời kỳ này chủ yếu viết bằng tiếng Anh và đăng trên một số tạp chí văn học tại Mỹ và Hong Kong.
Ngày 8/9/1995, người ta phát hiện ra bà đã chết trước đó vài ngày tại một căn phòng chung cư cũ kỹ.
Có một cô gái con nhà khá giả ở một thôn trang nọ, cô đẹp, có rất nhiều người đến mai mối, nhưng chưa có đám nào thành công. Năm đó cô chỉ cỡ chừng muời lăm, mười sáu, vào một buổi tối mùa xuân, cô đứng trước cổng sau nhà, tay vịn cành hoa đào. Cô nhớ chiếc áo cô mặc là một chiếc áo màu ánh trăng. Chàng thanh niên sống ở ngôi nhà đối diện và cô đã gặp nhau vài lần, nhưng chưa từng chào hỏi nhau. Chàng trai đi về phía cô, cách không xa mấy thì đứng lại, khẽ khàng hỏi một câu: “Ồ, bạn cũng ở đây à?”. Cô không nói gì, chàng trai cũng không nói thêm gì nữa, đứng thêm một lúc, rồi ai đi đường nấy.
Chỉ có thế thôi.
Sau đó cô gái ấy bị một người họ hàng lừa đi, đem bán ở một huyện xa làm thiếp, rồi lại bị mua đi bán lại vài lần, trải qua vô số thăng trầm, khi già rồi vẫn nhớ câu chuyện ngày xưa ấy, thường hay nhắc lại, trong buổi tối mùa xuân ấy, dưới cây hoa đào trước cổng sau nhà, chàng thanh niên ấy.
Gặp người mà bạn đã gặp trong ngàn vạn người xa lạ, trong ngàn vạn năm, trong vô biên và hoang lạnh thời gian, không sớm một bước, cũng không muộn một bước, mà vừa kịp lúc, rồi cũng chẳng có lời nào khác để nói, chỉ khẽ khàng hỏi một câu: “Ồ, bạn cũng ở đây à?”.
“Tình yêu” rút từ tập tản văn Lưu ngôn, xuất bản năm 1944 tại Thượng Hải.
Trần Trúc Ly dịch
---------------------- . -------------------------------
'Sắc giới' tái sinh nhà văn Trương Ái Linh
Cuộc săn lùng tác phẩm của Trương Ái Linh - nữ tiểu thuyết gia được yêu thích nhất tại Trung Quốc thế kỷ 20 - đang lên đến đỉnh của một cơn sốt chưa có dấu hiệu giảm nhiệt. Sự hồi sinh này bùng phát mạnh mẽ khi phim "Sắc giới" chuyển thể từ truyện ngắn của bà làm nóng các rạp chiếu phim trên thế giới.
Đĩa lậu phim Sắc giới của đạo diễn Lý An đã len lỏi tới mọi ngóc ngách ở Thượng Hải và Bắc Kinh. Nhưng khán giả Trung Quốc đại lục vẫn hối hả bay sang Hong Kong để được thưởng thức bộ phim một cách trọn vẹn sau khi đã xem bản bị cắt xén qua khâu kiểm duyệt trong nước. Một cuộc giằng co cũng dấy lên sôi nổi giữa Nhà xuất bản Đài Loan Crown - đơn vị giữ bản quyền toàn bộ tác phẩm của Ái Linh - với giới làm sách Trung Quốc, khi có hơn chục nhà xuất bản đại lục cùng hiệp lực đặt ra nghi ngờ về quyền sở hữu tác quyền của Crown và tính hợp pháp của bản di chúc của nhà văn.
Những ai không đủ điều kiện sang Hong Kong cũng có cơ hội bù đắp sự thua thiệt của mình bằng cách chen chân đến nhà hát, xem vở kịch chuyển thể từ Red Rose, White Rose - một tiểu thuyết khác của Trương Ái Linh, do đạo diễn Tian Qinxin dàn dựng. Truyện xoay quanh Zhenbao, một chàng trai trẻ vừa trở về Thượng Hải sau nhiều năm học tập ở Anh. Anh đem lòng yêu say đắm cô bạn xinh đẹp Red Rose nhưng vì mẹ nên buộc phải cưới cô gái khác là White Rose. Trương Ái Linh đưa ra một kết luận, mỗi người đàn ông đều ít nhất một lần trong đời phải đối mặt với tình huống tương tự. Và chọn con đường nào cũng không tìm được hạnh phúc. Nếu cưới Red Rose, hôn nhân trở thành "vệt máu của con muỗi chết dính lại trên tường". Còn nếu cưới White Rose, cuộc sống gia đình sẽ là "một hột cơm bầy nhầy dính trên quần áo".
Trương Ái Linh (1920-95) được coi là nhà văn của phụ nữ. Truyện của bà đầy ắp những đam mê tình yêu, sự ngoại tình, bội tín, những trái tim tan vỡ của con người thuộc tầng lớp trung lưu ở Thượng Hải trước cách mạng. Bà viết tiểu thuyết đầu tay từ khi mới 12 tuổi, xuất bản Red Rose, White Rose ở tuổi 24 và nổi tiếng với phát biểu: "Chúng ta nên nổi tiếng càng sớm càng tốt. Nếu danh vọng đến muộn, sự hân hoan sẽ không được trọn vẹn".
Sắc giới là câu chuyện về một nhóm sinh viên trong cuộc kháng chiến chống Nhật của người dân Trung Quốc. Vương Giai Chi - một cô gái xinh đẹp - nhận nhiệm vụ ám sát một tên Hán gian. Để quyến rũ kẻ địch, Giai Chi đã phải học cách làm tình với người bạn trong nhóm. Nhưng sau nhiều lần ân ái với kẻ phản bội, Giai Chi rút cục đem lòng yêu kẻ thù. Truyện chỉ dài khoảng 10 nghìn chữ, nhưng nhà văn đã phải viết đi viết lại trong vòng 20 năm. Bộ phim chuyển thể từ tác phẩm, do Lý An đạo diễn đoạt giải Phim xuất sắc tại giải Kim Mã 2007, giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice hồi tháng 9 và gây xôn xao dư luận với những cảnh sex quá nóng bỏng.
Cuộc đời nhà văn Trương Ái Linh cũng bi kịch không kém những nhân vật được miêu tả trong các tác phẩm. Ái Linh sinh năm 1920 tại Thượng Hải trong một gia đình thế gia vọng tộc. Năm nhà văn lên 5 tuổi, mẹ bà sang Mỹ, sau khi bị chồng phản bội và ngang nhiên sống với một a hoàn. Cha của Ái Linh về sau trở thành kẻ nghiện ngập. Mẹ bà trở về Trung Quốc, khuyên chồng từ bỏ người vợ lẽ và đoạn tuyệt với ma túy. Nhưng cuộc hôn nhân giữa hai người vẫn không tránh khỏi tan vỡ. Tuổi thơ đầy đau khổ đã để lại trong trang văn Trương Ái Linh những dư âm bi quan, tuyệt vọng.
Năm lên 8 tuổi, Trương Ái Linh đã bắt đầu đọc Hồng Lâu Mộng. 4 năm sau, bà viết tiểu thuyết đầu tay.
Trương gặp người chồng đầu tiên Hồ Lan Thành năm 1943. Họ kết hôn một năm sau đó, Nhà văn yêu chồng một cách say đắm, dù ông từng có một đời vợ và là kẻ phản bội thân Nhật. Năm 1945, khi phát xít Nhật bị đánh bại, Hồ Lan Thành chạy đến Ôn Châu và sống với một người đàn bà khác. Ái Linh vô cùng đau khổ, nhưng chỉ khi tìm gặp được người chồng bội bạc, bà mới nhận ra, cuộc hôn nhân của mình là không thể nào cứu vãn. Họ ly dị năm 1947.
Vào những năm 1950, Trương đến Hong Kong và sau đó sang Mỹ định cư. Kể từ đó, bà không trở lại Trung Quốc một lần nào nữa. Năm 1956, nhà văn kết hôn lần thứ hai với nhà biên kịch Mỹ Ferdinand Reyer. Reyer bị liệt sau một tai nạn vào năm 1961. Năm 1967, ông qua đời. Từ đó, nhà văn sống nép mình và chết một cách lặng lẽ trong một căn hộ đi thuê ở Los Angeles vào 1995.
Sau cách mạng, tác phẩm của Trương Ái Linh bị cấm tại Trung Quốc suốt một thời gian dài. Bà chỉ được đọc lại trong những thập kỷ gần đây.
"Tác phẩm của Trương Ái Linh ngày càng trở nên cuốn hút, vì chúng không liên quan đến chính trị, đến chủ nghĩa dân tộc. Đó là những câu chuyện về con người cá nhân", đạo diễn Tian Qinxin nhận xét.
------------------------- . ---------------------------
Trương Ái Linh (1920-1995) là một kỳ nữ trên văn đàn Trung Quốc cận đại, trải qua rất nhiều thăng trầm trong cả đời sống lẫn văn nghiệp. Trong gần mười năm trở lại đây, Trương lại trở thành một hiện tượng trong đời sống nghiên cứu văn học Trung Quốc. Các tiểu thuyết của Trương cũng như chính cuộc đời bà liên tục được chuyển thể thành phim truyện, kịch nói, phim truyền hình, tạo nên một cơn sốt Trương Ái Linh ở cả Trung Quốc, Hong Kong và Đài Loan. Nhà phê bình văn học Hạ Chí Thanh trong cuốn “Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc đương đại” đánh giá Trương là “một trong những tác gia vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc”. Một tạp chí nghiên cứu văn học tại Hong Kong xếp Trương vào một trong số năm nhà văn có ảnh hưởng nhất trong đời sống văn học Trung Quốc thế kỷ 20, bên cạnh những tên tuổi như Lỗ Tấn, Mao Thuẫn, Thẩm Tùng Văn...
Trương bắt đầu viết và được đăng trên một số tạp chí cũng như tập san của trường từ năm 1936 khi còn học trung học tại Hong Kong, nhưng phải đến năm 1942 khi một loạt truyện ngắn, tản văn và tiểu thuyết của Trương được đăng liên tục trên một số tạp chí lớn ở Thượng Hải, Trương mới thực sự trở thành một hiện tượng trong đời sống văn học. Năm 1952, Trương di cư sang Hong Kong. Ba năm sau, bà chuyển sang định cư ở Mỹ, từ đó sống một cuộc đời ẩn dật, lẩn tránh báo giới và từ chối mọi lời đề nghị phỏng vấn của các đài truyền hình. Các tác phẩm của Trương thời kỳ này chủ yếu viết bằng tiếng Anh và đăng trên một số tạp chí văn học tại Mỹ và Hong Kong.
Ngày 8/9/1995, người ta phát hiện ra bà đã chết trước đó vài ngày tại một căn phòng chung cư cũ kỹ.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)