Over and over I whisper your name. Over and over I kiss you again
TT&NT

Hiển thị các bài đăng có nhãn ngắn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ngắn. Hiển thị tất cả bài đăng

2.5.09

GIÓ DẠI _ BẢO NINH

Kìa ! Nghe thấy không, hình như là Diệu Nương đấy !

Nhiều tháng, và không chừng nhiều năm rồi đã trôi qua, Diệu Nương, cô gái ấy đã bị bắn chết từ những bao giờ vậy mà vào mỗi buổi mai, trước khi bắt sang một ngày mới, ở làng Diêm người ta vẫn mơ hồ ngái ngủ bảo với nhau thế. Như có thể nghe được quá khứ, như có thể thu được hồi thanh của thời gian vậy.

" Ta rong chơi giữa đời... ới a... biết đâu nguồn cội

Em xin làm bến đợi mà chân anh ghé qua... "

Khi đó là giờ của rạng đông yên tĩnh với ngôi sao Mai miền thảo nguyên to lạ lùng toả ánh biếc trên tầng không quang mây đang tảng sáng. Vào giờ đó mặt trời chưa mọc nhưng trên đồng cỏ bóng tối và sương mù đang nhẹ tách khỏi nhau, đang tan. Trong mông lung, làng mờ hiện.

Một vệt đường 14. Những cụm nhà mái tôn. Một ngôi nhà thờ.

Eo óc tiếng gà gáy da diết va cọt kẹt tiếng những con ròng rọc quay trên các miệng giếng trong làng. Làng Diêm thức giấc, buồn ngắt, chơ vơ, nổi lên chìm lịm giữa bốn bề mênh mông thảo nguyên bao la quạnh vắng.

Vào giờ đó, phía bên kia đồng cỏ những cỗ 105 ly trong căn cứ của Quân đoàn II vẫn đang ngon giấc và chiếc thám thính cơ L19 được dành riêng cho làng Diêm còn chưa chấm hiện lên ở chân trời. Dưới sông A Rang chảy qua bên làng, chiếc xe tải qua ngầm trễ nhất vừa lội lọt sang bờ bên kia, để lại những vòng sóng lan rộng tắt dần trên mặt nước mùa khô phẳng phiu.

Vào khoảng giờ này hồi trước trong thinh không đang ngân vang tiếng chuông giục giã giáo dân đi lễ mi-xa buổi sớm, nhưng trúng phải đạn đại bác tháp chuông đã từ lâu rồi im hơi lặng tiếng. Khắp sân nhà thờ toang hoác những hố bom và hố pháo không ai buồn lấp. Um tùm lùm bụi và gai góc tràn lấn các lối đi. Hàng sáng trên thềm đá dưới hiên nhà thờ, một vị linh mục trong bộ chùng thâm âm thầm tựa cửa ngóng mặt trời lên.

Suốt đêm, trên khúc đường 14 chạy ngang trước nhà thờ nườm nượp xe pháo và quân lính trẩy dọc qua làng. Bây giờ tất cả đã biến đi nhường chỗ cho buổi tinh mơ không một bóng người.

Sau sương, trên đường thôn nghe như có tiếng xe bò lăn bánh, lộc cộc lộc cộc ra đồng. đây đó, im lìm rải rác những mái nhà tôn còn ẩm hơi khuya nhè nhẹ thở ra làn khói bếp.

" Ta rong chơi giữa đời... ới a... biết đâu nguồn cội... ",

từ đâu đó dưói đáy sương nương theo ngọn gió sau chót của trời đêm đang lẳng lặng giã từ bờ sông và đồng cỏ, tiếng hát cất lên, bổng bay.

Trong cõi lòng ủ ê của linh mục thoáng rợn luồng cảm giác như dòng điện. ông rùng mình, bàn tay chực đưa lên làm dấu thõng rơi. Nhắm mắt lại, ông cúi đầu xuống, khẽ thở dài.

Xa, sau rặng đồi thâm thấp nhấp nhô trên bờ đông đồng cỏ vừng dương ướt át, mềm mại và tươi hồng đang thầm lặng nhô lên. Từ tù mù xám đục không gian bỗng trong vắt một vùng và cả nửa vòm trời đã ngả màu lơ. ánh sáng lung linh chảy thành dòng. Cùng với ngày mới tiếng hát dường như lớn lên mãi và tràn rộng ra, vừa sâu trầm vừa vút cao, tự thoát đi trở thành âm thanh vô chủ, ngân lên hoang dã trở thành khúc du ca của thiên nhiên.

Trong làng, bọn nhãi hát với theo Diệu Nương. Người lớn, ai nấy sững sờ.

Bên sông, trong trận địa phòng không bảo vệ ngầm, các pháo thủ đang làm những công việc chuẩn bị cho trận đánh trong ngày bất giác ngừng hết lại. Các trinh sát viên rời mắt khỏi bầu trời, dõi ống nhòm về phía làng.

" ... trăng ơi mày quá tệ... "

- Kìa ! Trông kìa, cô ta đấy !

Một người lính kêu lên, đưa tay trỏ.

Cảnh vật được ống nhòm làm cho xích gần lại. Sau những lùm cay che lấp con đường nhỏ viền quanh làng dường như thấp thoáng bóng người đàn bà đang hát. Trong màn ban mai, ảo mộng và thực tại lẫn lộn, âm thanh và hình ảnh nhoà nhập. Một thân hình thon thả, một dáng đi uyển chuyển. Suối tóc xoã trên lưng. Song đó có thể chỉ là hư ảnh của bài ca, một ảo giác lồng trong tiếng hát. Một bóng ma. Một bóng ma tha thướt và quyến rũ, mềm mại và sống động, nhưng có thể bỗng chốc tan biến trong huyền bí.

Đứng trên nóc hầm thông tin, đại đội trưởng và chính trị viên chuyền nhau chiếc ống nhòm.

Huyền thoại về Diệu Nương, ca sĩ ngụy Sài Gòn bị chiến sự thình lình cầm giữ trong vùng Giải phóng, lâu nay là câu chuyện hàng ngày ở pháo đội này. Trí tưởng tượng của từng người làm giàu thêm những chi tiết hoang đường.

- Rong chơi ! - Chính trị viên buông ống ngòm, nhăn mặt – Không bắt cái đồ đĩ ấy câm miệng lại, cả đại đội sẽ bị nó hớp hồn. Rồi sẽ khối đứa đâm đầu theo nó mà rong chơi.

- Nhưng làm sao cấm hát được ? Đại đội trưởng nhún vai

- Cấm ! Vì là nhạc vàng, là phản chiến, là ngụy ca !

- Đấy là Trịnh Công Sơn.

- Cũng thế thôi. Mà sao cứ đúng giờ này là nó nỉ non, hay nó làm ám hiệu ? Hay nó muốn rủ rê lính mình bỏ trận địa xuống ngủ với nó cho sinh bệnh mất sức chiến đấu, hả ? Có phải nó toan thế không ?

- Nhưng cô ta hát mới hay làm sao. Thật là một giọng hát tiên cô...

ở bên kia sông, một toán bộ binh đang lội qua vàm cỏ tranh. ánh kim loại lấp lánh. Người đi sau cùng dừng lại, ngoái nhìn về làng Diêm.

Mặt sông A Rang màu lam đang bốc hơi nghi ngút. Gió sang sông mang theo tiếng hát. Cơ thể người lính đón nhận tiếng hát với cái rùng mình. Giai điệu bài ca như đụng khẽ vào tim anh. Trong trẻo và sáng rõ như được tắm gội trong khí mát ban mai, nhưng càng lan xa bài ca càng rung lên nỗi buồn, một nỗi buồn sâu thẳm, cao vợi và rộng lớn vô biên, dường như tiếng hát ấy chính là nỗi niềm của thảo nguyên. Thảo nguyên tự do, mênh mông vô tận, chạy hút về phương trời xa xăm, không biết đến các tuyến tiền duyên, không màng gì tới chết chóc, trận mạc, bom pháo, giết chóc.

Buồn thay khúc du ca lạc loài. Nỗi sầu thương hồ hải.

***

Mặc dù người ta đồn thổi, người ta thêu dệt, đời Diệu Nương vẫn hoàn toàn là bí ẩn. Thiên hạ chỉ chắc chắn rằng Diệu Nương lưu lạc đến vùng sông A Rang này vào mùa hè năm 72, sau ngày quân Giải phóng tấn công và quân Sài Gòn tháo chạy, còn trước đó cô là ai, từ đâu cô phiêu bạt tới, tên thật của cô thế nào thì chẳng mấy người biết, mà những người xưng là có biết thì lại mỗi người kể mỗi phách. Ngay chính Diệu Nương hình như cũng không hề hay biết gì nữa về mình. Đời cô, cô dường đã quên cả

- Nghe nói khi dạt về đến đây cô ta chẳng còn lấy một manh vải che thân.

Tôi cũng nghe nói vậy. Song, vào " Mùa hè đỏ lửa " thì có riêng gì cô ta mới ra thân tàn ma dại, tôi nghĩ. Cũng như cỏ cây, số phận con người mà bị khói lửa chiến tranh ngốn thì chỉ thoáng chốc thôi là thành tro than.

Năm 72, chiến sự rùng rợn giết hàng đống người. Người chết, chết ngả rạ dọc các ngả đường, la liệt trên các nội cỏ và nổi lềnh phềnh trên mặt sông. Người còn sống sống ngắc ngoải, dở sống dở chết. Tứ phương tan tác. Cả đến thiên nhiên cũng như thể bị hoá kiếp. Cảnh làng biến tướng.

Thực ra thì không làm gì còn làng nữa. Ngày trước làng ồn ào nhộn nhịp, nửa làng nửa phố, nhà cửa san sát, trù phú, thịnh đạt. Cách thị xã chỉ mười cây số đường chim bay, làng được quân Mỹ gìn giữ. Đàn ông trong làng đi lính hưởng lương. Đàn bà chạy chợ. Cả làng ngoan đạo. Bây giờ thì bao nhiêu sự giàu có thời Mỹ-ngụy đều rữa nát và mục thối ra dưới những đống hoang tàn.

Ngày ngày làng rơi vào tầm đại bác từ thị xã rót về, và ngày ngày hàng đàn phi cơ tràn tới, hoặc cắn đuôi nhau bổ nhào hoặc bay bằng trút bom xuống làng, xuống hai bờ sông, xuống đồng cỏ. Cây cầu sắt bắc qua sông A Rang bị đánh sập. Công binh vận đá về làm ngầm, bom pháo càng thêm ác liệt. đất trời nghiêng ngửa.

Giữa năm 73, tiểu đoàn 17 pháo cao xạ được điều về giữ ngầm A Rang. Ba đại đội pháo 37 ly chốt hai bên bờ sông, tạo thế chân kiềng quần nhau với không lực Sài Gòn. Đại đội tôi bám chân ngay kề làng Diêm.

Một cái làng cô hồn. Cỏ dại, gai góc, lùm bụi, những đống gạch vụn, ngói nát, rầm gãy ngổn ngang. Rải rác, xiêu vẹo, những túp những nửa lều nửa hầm mọc ngoi lên trên nền đổ nát. Từ những đống hoang tàn bầy chó trong làng bươi ra đủ thứ nát bét của đời sống một thời đã sụp đổ : những mớ nhầu bấy, rách bươm và sặc sỡ váy áo, mũ mão, đồ da, đồ nhựa, những mảnh vụn đồ gỗ, đồ thuỷ tinh, vật dụng gia đình...cùng những khúc xương xẩu người và gia súc mà đàn chó xâu xé , giằng giật của nhau, tha đi, chuyền cho nhau như đánh khăng.

Dân cư của lang thưa vãn và suy tàn, đầy rẫy những nhân vật hoang dại. Đàn ông còn lại chẳng bao nhiêu mà đa phần lại là những phế binh đã hết thời được ngó ngàng chăm sóc, què cụt, đui mù, bẹp dí. Hầu như chỉ thấy đàn bà và trẻ con ló mặt khỏi nhà. Những mụ vợ lính lạc chồng, những ả goá rách rưới, rạc rài, không lai lịch và bầy trẻ ranh ốm đói trần truồng, bụng ỏng, gầygiơ xương.

Phần đông vốn không phải người làng Diêm. Mùa hè năm 72 từ nhiều thị trấn, làng mạc, khu gia binh họ nhập vào dòng thác chạy loạn đổ xô theo đuòng14 dồn về thị xã. Đụng phải xe tăng Giải phóng, biển người bị nén lại ở làng Diêm. Tại đây, vào lúc nửa đêm đã diễn ra một cuộc thảm sát.

Người ta kể lại rằng đêm ấy, nghe tiếng động cơ của một chiếc Dakota lượn ì ì trên bầu trời đồng cỏ, đám dân chạy loạn đã đốt lên cả ngàn ngọn đuốc. Một cây thánh giá khổng lồ đã được vẽ ra bằng lửa trên quảng trường trước nhà thờ. Trong đêm tối, người ta hò hét, kêu gào vẫy gọi con tau Nô-ê trên lưng chừng trời. Không ai nghe thấy những loạt đề pa, không ai nhìn thấy những nhoàng lửa đầu nòng chớp lên giần giật ở chân trời. Sau cả giờ chết chìm trong pháo bầy cấp tập, lại tiếp tục những lượt người tan xương nát thịt dưới trận mưa bom kéo rền rền tới tận sáng. Trong nhúm người may mắn còn được sống có lẫn Diệu Nương.

Bọn họ trở thành người làng Diêm từ đấy. Từ đấy tất cả bắt đầu cuộc đổi đời bắt buộc. Tất cả đều phải cam chịu sống đời gian khổ, ăn đói mặc rách, đổ mồ hôi trên nương sắn rẫy lúa tự cày cuốc nuôi thân. Tất cả đều phải sớm biết thu mình vào khuôn khổ kỷ cương của chính quyền mới. Những kẻ cứng đầu, những tên to mồm đều bị thẳng thừng trấn áp. Nhiều tên bị bắn, nhiều kẻ bị bắt.

Diệu Nương cũng đã một lần bị du kích tống giam. Họ nhốt cô ba ngày trong xà lim hầm đất vì tội nhiều lần hát những khúc ca ngụy. Được thả, cô vẫn chẳng chừa, vẫn buông thả không khuôn phép, tự do lãng đãng sống tách khỏi cộng đồng, và sáng sáng chiều chiều cô vẫn cứ hát, giọng ca huyền hoặc quỉ ám. Người ta đồn rằng đêm đêm cánh đàn ông vẫn mò mẫm tới túp lều nát của cô ở ven sông. Họ gõ cộc cộc vào cánh cửa gỗ dán hoặc cào sột sột vào vách liếp. Họ thu trong tay họ người thì phong lương khô hoặc túi gạo sấy, người thì hộp thịt, bao thuốc lá hay miếng vải, hay là kim chỉ, gương lược, diêm muối, đủ thứ để đổi lấy một thứ. Chẳng có bằng chứng nào, song tiếng tăm điên rồ và vô liêm xỉ của Diệu Nương vẫn xầm xì lan rộng. Có thể vì thế mà nhiều người bảo rằng ngày trước Diệu Nương là gái bán bar trong căn cứ Mỹ, thậm tệ hơn người ta còn bảo cô vốn là một con " thiên nga ", đậi khái là đồ đĩ rạc. Hư thực ra sao chẳng ai quả quyết, bởi vì còn những lời đồn đại hoàn toàn khác, những thuyết khác hẳn về nguồn gốc của Diệu Nương.

Nhiều người nói rằng thuở trước cô là một danh ca Sài Gòn. Ban nhạc của cô nhận lời lên biểu diễn cho một đơn vị biệt động quân đồn trú tại Tân Trấn. Suất diển cuối cùng rủi thay lại trùng với giờ N mở màn Mùa hè đỏ lửa. Xe tăng và bộ binh Bắc Việt tràn ngập Tân Trấn, tuyến phòng thủ vỡ, quân lính bị giết, ban nhạc tan tác. Diệu Nương theo dòng người chạy về tới làng Diêm thì cùng đường. ¸o xống lộng lẫy cửa nữ danh ca đã thành tã trong cuộc tháo chạy ngang qua đồng cỏ ngụt lửa. Đêm đến, trong hoả ngục rùng rợn của cuộc tàn sát, Diệu Nương bị vùi dưới núi xác chết chất trên sân nhà thờ. Hơn một ngày thở bằng hơi thở của các tử thi rồi cô mới được moi ra, trần truông, bê bết máu đặc. Và bởi chấn thương tinh thần do nỗi kinh hoàng đêm ấy mà Diệu Nương trở nên điên dại, người ta bảo thế. Lúc điên ngấm ngầm, lúc lấp lửng điên, lang thang, vật vờ, nửa mộng du, lúc bột phát quay cuồng, mất trí.

Từ đấy, mặc dù được giải phóng nhưng đời cô mai một. Bàn tay cô quá mềm, da quá mỏng không cầm rựa phát cây được, không nhấc nổi cuốc để cuốc đất, nên thân cô không được trui rèn, không tự cải tạo nổi bằng tăng gia sản xuất. Sắc đẹp của cô chỉ nhấn mạnh thêm lên vẻ lạc loài. Giọng hát của cô chẳng hữu ích cho ai trong thời buổi nghiệt ngã cam go, nay sống mai chết, nhọc nhằn và túng đói.

Tuy nhiên, ngày ngày,vào những ban mai và những hoàng hôn, bản năng xướng ca vẫn thúc bách Diệu Nương cất tiếng hát. Giọng ca tuyệt vời song thảng thốt như làn gió dại lướt xiên đồng cỏ trong ánh nhá nhem buồn thảm của mỗi ngày. Trong lời ca của Diệu Nương đau thắt nỗi nhớ quê nhà, nhớ đời nghệ sĩ, nhớ sàn diễn, nhớ khán giả, sắc đẹp và tuổi thanh xuân mà nay tất cả đã rời bỏ cô, đã xa lắc xa lơ ở bờ bên kia không thể vượt qua được của chiến tuyến.

"... nhưng ôi, chúng ta, chính chúng ta đây

một thời chúng ta cũng có

một quê hương và một mối tình... "

Ở làng Diêm bây giờ vẫn còn có người nhẩm lại được giai điệu và lời của bài hát buồn vô hạn ấy mà một buổi xế chiều xa xưa nọ Diệu Nương đã lần đầu hát lên. Chiều ấy, lúc xế tà, bộ đội dong tù binh qua làng. Hằng trăm lính áo rằn bị trói thành cặp, lầm lũi lê bước. Những lính áp giải đầu súng gắn lê, gay gắt, lạnh lùng lùa thúc đoàn tù đi mau qua khỏi khu vực dân cư.

Hai bên đường sau các ngưỡng cửa thấp lè tè lấp ló những khuôn mặt sợ sệt, bồn chồn. Dân làng mong tìm kiếm người thân trong đám tù binh nhưng chẳng ai dám mon men ra đứng ở vệ đường.

Chợt sau rặng cây phía cuối làng thấp thoáng bóng một người. Ấy là Diệu Nương, và giờ đấy, giờ tận chiều của mỗi ngày cũng là giờ xuất thần của cô.

Môi mấp máy, mắt nhìn chăm chăm, Diệu Nương rẽ đám cành lá, đi theo đoàn tù. Những người đàn ông lưng còng đang lê bước không để ý tới cô. Trong bóng chiều chạng vạng mặt mày họ tối om như mặt đất.

Bỗng người ta nghe thấy những âm thanh như tiêng ai khẽ nức nở. Diệu Nương lấy giọng yếu ớt và vấp váp hát lên một khúc ca hầu như chưa từng ai nghe thấy trên đời. Tiếng hát nhỏ, gai điệu u tối và không rõ lời.

Như nghẹn ngào, Diệu Nương ngừng lại lấy hơi rồi lại hát tiếp. Ở giữa khối tù một người chợt cất cao giọng. Rồi một người khác nối theo. Rồi nhiều người. Giọng hát của Diệu Nương như lướt một cái hôn dài trên môi tất cả. Đoàn tù biến thành dàn đồng ca. Những giọng đàn ông chung nhau một bè trầm át tiếng chân bước. Đội áp giải không bắt tù phải im miệng. Những ngọn lê chúc cả xuống.

Dân làng ra hết hai bên đường. Họ lặng lẽ đứng chôn chân nhìn theo đám rước đang khuất dần trong vầng bụi bốc lên trên con đường tù đày vô định xuyên qua thảo nguyên bát ngát. Bài ca của Diệu Nương và của những chiến binh xấu số vang lên trong thinh không lúc ấy đã tràn đầy bóng tối.

" Trong cuộc huynh đệ tương tàn

Chúng ta chỉ là con sâu cái kiến

Nhưng ôi, chúng ta, chính chúng ta đây

Một thời chúng ta cũng có

Một quê hương và một mối tình... "

***

Giờ đây, Diệu Nương đã chết. Trên đồng cỏ, giữa vô vàn gò đống, nấm đất nào là nấm đất của Diệu Nương, ai là người có thể chỉ ra được ?

Và cả nấm mồ của người bị bắn chết cùng cô nữa, thất lạc nơi đâu trong đất trong cỏ ?

Cuộc sống triền miên trôi chảy. Cuộc sống không hề có trí nhớ. Những lớp lá rụng, những lượt thời gian. Đất cát. Cỏ cây. Mùa mưa. Mùa khô. Năm này tấp lên năm khác.

Ngôi nhà thờ của làng Diêm cuối cùng rồi cũng bị máy bay triệt hạ. Cỏ dại chôn vùi các bức tường đổ, nuốt dần các bậc thềm. Sáng sáng tiếng quạ kêu trong thánh đường hoang tàn gợi người ta nhớ tới vị linh mục. Ông ta đã bỏ làng ra đi, chẳng ai biết là đi đâu...

Bên sông trận địa pháo cao xạ chỉ còn chơ vơ những công sự hình móng ngựa đã sụt lở. Đây đó vài hố bom đìa hoác miệng. Những hố bom bi, bom phạt quang và hố đạn pháo thì thời gian đã san bằng. Và cái lối nhỏ ngày xưa đính pháo đội với làng Diêm nay chỉ lờ mờ một vệt trăng trắng uốn lượn lẩn khuất dọc bờ sông um tùm lau lách. Lính tráng đi xa chắc vẫn chưa quên con đường mòn ấy. Trên lối ấy, hồi đó, ngày hai bận anh nuôi từ trong làng gùi cơm canh ra trận địa. Ban dêm, nhất là những đêm tối trời, cũng lối ấy lính các khẩu đội tụt tạt mò vào làng " dân vận ". Thoáng bóng cán bộ đại đội hay là tuần tra của du kích, những kẻ xé rào đi ăn sương lẳng lặng né ngang xuống mép sông, thu mình trong bãi lau. Văng vẳng tiếng cuốc kêu phía đầu làng. Hơi ẩm màn đêm ướt lạnh vai áo. Cầm lòng không đậu.

Hồi ấy, lệnh trên gần như cấm tiệt bộ đội không được tiếp xúc với đám dân còn chưa được giác ngộ, còn nửa ngụy của vùng mới giải phóng. Không có nhiệm vụ tuyệt đối không được láng cháng vào làng. Kiêng kỵ như vậy thật kỳ quặc, nhưng quân lệnh như sơn, lơ mơ bị bắt quả tang đang vi phạm thì tha hồ mà kiểm thảo lên kiểm thảo xuống, rồi kỷ luật đảng kỷ luật đoàn đủ vành đủ vẻ tai vạ chuốc vào thân. Mặc dù vậy, lính gần dân lửa gần rơm.

Dẫu không phải là tình cá nước, nhưng thời gian trôi qua quan hệ vụng trộm giữa các khẩu đội pháo với những túp lều nát trong làng đã thầm lén in lên mặt cỏ một lối mòn. Ban ngày, trừ tổ anh nuôi không ai lai vãng trên lối đi ấy, nhưng đêm xuống đó là đường ân tình. Có lẽ tới bây giờ trong mỗi túp lều còn có thể gom lại hàng mớ kỷ vật và ở trong lòng mỗi người dân thì còn vương nhièu kỷ niệm về các tay lính pháo thủ cao xạ Bắc Việt ngày ấy. Người ta bảo rằng trong quan hệ quân dân khuất tất hồi ấy đã lén lút sinh ra không ít niềm quyến luyến, gồm cả những mối tình, cho dù hầu hết chỉ thoảng qua, vội vã, chợt nhen chợt tắt, tù mù, chẳng dẫn tới gì, chẳng đi tới đâu, nhưng vẫn là tình.

Hồi ấy niềm ước ao hạng nhất của lính pháo thủ là được vào làm phụ bếp cho anh nuôi trưởng Cù. Cả đại đội chỉ mỗi Cù chốt hẳn trong làng, còn hai phụ bếp thì phải luân phiên, mỗi tháng thay một lần.

Chẳng hiểu là tới bây giờ hai cái lán nứa nền âm, một nhà kho, một nhà bếp, được cất lên ngay cạnh khuôn viên nhà thờ có còn dấu tích gì không . Hồi đó, Cù nhắm vuông đất bên nhà chung bởi anh hy vọng đấy là toạ độ tương đối ít phải ăn bom. Bất tiện là phải chung giếng nước với ông cha đạo nhưng Cù thích cái giếng ấy, nước của nó trong và ngọt nhất làng. Còn cha cố thì tiếng vậy chứ cũng là người. Mặc dù trẻ tuổi song ôngta rất nghiêm túc, vẻ lễ độ khoan hoà, ứng xử biết điều hơn bất kỳ ai trong đám chúng dân làng Diêm. Cù không ưa gì họ. Rặt một phường vô dụng. Sống giữa đồng cỏ, đất đai vô thiên song vì là thứ dân tứ chiếng, một hạng nông dân miễn cưỡng, họ không thiết làm lụng để có cái ăn mà chỉ toàn xoay xở đắp đổi qua ngày. Có lẽ bọn họ đã quá quen với viện trợ Mỹ, quá quen nằm ngửa ăn sẵn, nên giờ đây lòng họ chỉ canh cánh hoài tiếc thuở vàng son đi lính và làm đĩ cho Mỹ cho ngụy, Cù nghĩ. Có lẽ bọn họ đều ngấm ngầm một lòng với địch, ngấm ngầm ngóng đợi một thời cơ, sau cái vẻ bề ngoài nhẫn nhịn và cam chịu mà Cù thấy là đê tiện.

Và nhất là bọn đàn bà. Cù không hiểu nổi can cớ làm sao mà đồng đội của anh nhiều tay lại để cho chúng hớp hồn dẽ dàng như vậy. Cả đại đội, năm chục thằng, bao nhiêu năm tút hút trong rừng sâu với nhau chẳng thành vấn đề gì, nhưng vừa kéo nhau ra nơi trời đất quang quẻ, có sông, có làng, có thấp thoáng bóng đàn bà là có chuyện. Mà nào phải là người phụ nữ hiền thục, trung hậu , đảm đang nơi quê xa ngoài Bắc hay các chị em giàu truyền thống cách mạng trog vùng hậu cứ. Cả làng, Cù nghĩ, rặt một lũ vi trùng giống cái.

" Vi trùng giống cái truyền bệnh tiêm la, giang mai... ", chí ít thì đấy cũng là cái cách anh thường nói để răn đe các tay phụ bếp.

Không phải bất cứ gã nào ngoài trận địa Cù cũng nhận vào tổ anh nuôi. Những tay nom tốt mã, những tay bẻm mép, láu lỉnh, lắm tài vặt, dễ léng phéng là Cù gạt ngay. Có tay nom bề ngoài củ mỉ cù mì nhưng phụ bếp mới quá một ngày đã bị Cù tống khứ về với mâm pháo vì hoá ra là một thằng tẩm ngẩm tầm ngầm.

" Đã là thằng anh nuôi ngày ngày thường xuyên với gạo nước rau mắm của đơn vị - Cù bảo – thì hai bàn tay phải tinhkhiết, cấm đụng chạm tới những sự uế tạp, dơ dáy, nhất là cấm kỵ không có được vọc vào đàn bà. "

Dân làng cũng sợ Cù. Chẳng ai dám mon men tới gần giếng gần bếp của anh. Dẫu có bắt quen được với tay phụ bếp nào, muốn xin xỏ hay đổi chác gì thì cũng phải đợi lúc Cù gùi cơm ra trận địa mới hòng.

Ngày hai lần, tinh mơ và chiều tà, để một người coi nhà, còn Cù cùng một anh nuôi viên nữa mang bữa ăn ra cho các khẩu đội pháo. Con Ních, một con chó săn nòi Lào nhỏ vóc và nhanh nhẹn, thính mũi cực kỳ chạy mở đường. Họ đi trên đường14 một đoạn ngắn rồi rẽ xuống, lối đi lượn vòng vèo trong làng qua các tụp lều nghèo nàn bệ rạc tường đất mái tôn. Họ đi, người hơi đổ về phía trước,hai bàn tay vòng sau chắp lại đỡ lấy đáy gùi. Hai cái gùi to như hai cái thùng phuy, bọc bao tải,toả hơi nóng và mùi cơm chín tới, mùi thức ăn lính.

Bầy chó trong làng thoáng bóng con Ních, chạy dạt. Đói meo, chúng núp sau các đống đổ nát, nhìn ra mà không dám sủa. Chỉ có mấy thằng bé rách rưới bị mùi cơm canh nóng sốt quyết rũ là lẵng nhẵng bám theo hai cái gùi.

- Bác anh nuôi ơi, bác anh nuôi... – Chúng kêu lên khàn khàn như đàn quạ.

- Bọn ngụy con, cút xéo ! – Cù quát

Nhưng nếu có ông lỏi nào gan lỳ theo dược tới cuối làng thì Cù dừng bước, vẫy nó lại. Anh móc trong bị cói đeo bên hông ra một củ sắn nướng hoặc bắp ngô luộc,có hôm cả một con cá khô. Anh bảo :

- Đó, cho mày. Có vậy thôi. Cơm canh bộ đội có chó gì. Sắn cõng gạo. Tàu bay chấm muối riềng. ¥n cách mạng đời chúng mày được giải phóng, nhưng phải biết chịu khổ. Phải biết cuốc cày mà nuôi lấy nhau, về bảo mẹ chúng mày thế. Đừng có ưỡn ườn ra trên giường mà chờ sung. Cách mạng còn dài. Đến hết đời chúng tao. Hết cả đời chúng mày...

Nghe nói đến tận bây giờ người ta vẫn thấy con Ních đi và về trên con đường ấy. Nó lần ra bờ sông, ngửi hít những cái vỏ đạn 37 ly đã rỉ xanh, rồi leo lên một cái hầm pháo cao xạ ngập trong cỏ tranh, nó đờ đẫn ngó làn nước trôi. " Bác anh nuôi ơi, bác anh nuôi ! ", một trong những thằng bé hồi ấy giờ đã lớn quen miệng cất tiếng gọi khi trông thấy con chó già cô độc bị bỏ rơi đang đi trên đường thui thủi. Dường như thằng bé còn nom thấy đằng sau con chó hình bóng hai người lính cấp dưỡng đang cõng trên lưng hai chiếc gùi.

Con chó bị riết vào lối mòn xưa. Và bao giờ nó cũng qua làng vào thời điểm thấp nhất của mặt trời : khi ban mai, khi hoàng hôn. Không gì có thể làm xao nhãng cuộc mộng du ấy. Không ai dám đụng tới con vật đó.

- Chính là nó đã giết chết Diệu Nương.

Những người mang mang biết chuyện bảo thế. Nhưng những người không hề hay biết gì về tấn thảm kịch cũng sờ sợ con chó, họ mơ hồ cảm thấy trong cuộc dạo chơi buồn thảm nhịp nhàng, lặp đi lặp lại của nó một vẻ mù quáng và điên dại đặc biệt con người.

***

Lần ấy, đến hẹn, khẩu đội 3 và khẩu đội 4 cử người vào làm anh nuôi thay cho Binh khẩu đội 1 và Tuấn khẩu đội 2 đã hết phiên. Nhưng trái lệ thường, Cù chỉ thay Bình còn giữ lại Tuấn. " Thằng Tuấn thạo việc rồi, với lại nó rất chịu thương chịukhó, có thể kế cận cho tôi làm anh nuôi trưởng cũng được ", Cù giải thích thế với chỉ huy đại đội.

Tuấn vốn gốc gác bộ binh. Bị thương nặng,đáng lý được ra Bắc rồi nhưng nghe động viên thế nào đó đã tình nguyện ở lại chiến trường. Người ta không điều Tuấn về lại đơn vị cũ mà bổ sung sang tiểu đoàn cao xạ. Anh về đại đội tôi mới được nửa năm, giữ chân pháo thủ số 3 ở khẩu đội 2.

Vóc người anh cao, ốm yếu, võ vàng, cổ lộ hầu, một vệt sẹo dữ dội do đạn bắn thẳng cày chéo từ mang tai xuống cằm. Miệng anh vì thế méo đi, cho anh cái biệt danh là Tuấn " mếu ". Mặc dù là dân Kinh Bắc nhưng Tuấn lầm lỳ, nóí ít lạ lùng và nói miễn cưỡng. Giữa một đám pháo thủ luôn ăn to nói lớn, thích tán dóc đấu láo, Tuấn âm thầm nín thinh, chẳng góp chuyện, chẳng bật cười, chẳng bao giờ tức khí nổi xung. Tuyệt đối thờ ơ lãnh đạm. Một nhà quí tộc hay một gã chán đời ?

Tuấn dửng dưng với những cú bổ nhào trực tiếp lao cắm mặt xuống cắt bom của máy bay cường kích. Bom nổ xa, nổ gần, rốckét nã trúng bờ công sự, Tuấn kệ. Song cái thứ tính khí lạnh nhạt, bàng quan với tất thảy ấy lại có vẻ hết sức thích hợp để làm pháo thủ số 3. Giữa cuộc hỗn chiến đất đối không, số 3 chân chính là người không hề để mắt tới máy bay, tới bom, tới đường đạn bắn lên trúng hay trượt, mà hoàn toàn ung dung tự tại, anh ta chỉ một nhiệm vụ là điềm nhiên bình thản quay tay quay điều chỉnh cự ly bắn đón cho pháo theo nhịp đếm của trắc thủ đo xa.

- Đánh nhau kiểu cao xạ sao mà tẻ - Có lần Tuấn ra lời bình phẩm như thế với tôi - Đánh trận mà như là đánh máy chữ. Chẳng có kịch tính gì, khác xa bộ binh.

- Tại cậu đứng mãi số 3 nên thấy thế đấy - Tôi bảo – Nếu muốn thì đề nghị khẩu đội trưởng cho hoán vị, tớ đứng số 3, cậu ngồi ghế số 2 của tớ mà dận cò.

- À không. Là nói thế. Chứ bảo mình thế nào thì mình thế nấy. Chả xin gì chả ước gì. Thế tuốt !

- Chán đánh nhau sao không ra Bắc, lại ở lại ?

Tuấn nhún vai.

- Hay thất tình ? Chắc hay tin vợ ở nhà ngủ với dân quân chứ gì ?

Tuấn " à " một tiếng rồi lại ngậm tăm. Miệng méo xệch.

Thực ra Tuấn vợ con chưa, ai mà biết. Cả chính trị viên cũng không nắm được gì nhièu về Tuấn ngoài mấy dòng trong lý lịch quân nhân. Tuấn chẳng tâm tình, chẳng thiết thổ lộ. Chẳng bao giờ tháy anh viết thư hay được thư. Họp hành, anh ngồi im. Cùng lắm là ậm ừ.

Ngoài cái nết kín bưng nổi bật ấy, Tuấn có nét nổi bật nữa là tài chơi đàn. Khác với lối chơi ghi ta thường thấy của lính, Tuấn không vừa đàn vừa dậm chân rung đùi, không lúc lắc vai, không vừa đàn vừa huýt sáo hay là ư ử trong họng, anh đàn một cách thẫn thờ, chẳng phải để cho ai nghe, cũng chẳng phải cho mình.

Cậu chơi bài gì nghe lạ vậy Tuấn ?

Tuấn lại chỉ " à " khẽ một tiếng.

Vào làm anh nuôi, Tuấn cũng xách ghi ta theo. Một cây đàn cũ kỹ, thùng đàn xây xát, nhưng mà tiếng rất tốt. Nghe nói Tuấn đã tha theo cây đàn này vào bộ đội và mọi người đều lấy làm lạ không hiểu bằng cách nào mà anh vẫn giữ được nó qua bao nhiêu là chặng của đời lính.

Vào làng buổi sáng, chiều Tuấn đã cùng Cù đưa cơm ra trận địa. Gùi canh môn thục tổ bố bốc khói trên lưng.

- Vất vả không Tuấn ?

- Cũng vất

- Bọn đàn bà làng Diêm thế nào, giàu kịch tính không ?

- À

Tuấn hờ hững. Bảo ở pháo thì ở, bảo vào làm anh nuôi thì vào, anh chẳng sốt sắng cũng chẳng thoái thác. Im lìm nguội lạnh, chẳng nói chẳng rằng, song anh làm việc hết mình, không hề nề hà ngại khó, chẳng bao giờ kêu ca.

Lúc đầu Cù không thích Tuấn, anh bực với cái lối âm thầm ngậm tăm ấy, nhưng rồi cũng đâm quen. Trầm tính không phải là một cái phốt, vả lại làm anh nuôi thì cả ngày đầu tắt mặt tối, túi bụi, tất bật, luon chân luôn tay còn đâu thời gian hở ra mà chuyện vãn.

Chỉ có một khoảng ngắn ngủi về khuya, khi một ngày cơm nước cho đơn vị đã chu toàn, ba chàng cấp dưỡng mới được tắm táp, nghỉ ngơi, tranh thủ trao đổi với nhau đôi lời trước khi mệt nhọc rũ người xuống võng. Cù lôi rượu ra. Mỗi thằng nhấp một chén và nghe Cù cắt cử phần việc phải làm ngày mai. Hôm nào được chút thảnh thơi, Cù và Bình đánh bài, còn Tuấn thì gỡ cây đàn treo trên vách xuống, chầm chậm so dây rồi nhè nhẹ phác một giai điệu.

Bấy giờ, khoảng đầu tháng Năm ta, đêm thường mưa. Ngoài sông A Rang nước lên, con lũ chuyển mùa ầm vang đồng cỏ. Trên mây sấm lăn rền rền.

Bình huýt sáo nhịp theo khúc nhạc. Cù buông bài, quay sang lặng lẽ nghe Tuấn đàn. Âm điệu quá quen thuộc mỗi sáng mỗi chiều. " Ta rong chơi giữa đời biết đâu nguồn cội ".

Ngoài trời miên man mưa, không khí trong lán ẩm ướt. Quầng sáng đèn dầu vàng ủng. Đời lính buồn rầu hiu hắt. Như tiếng thở dài.

***

Bếp anh nuôi của pháo đội cao xạ và căn nhà của linh mục nhìn sang nhau qua một vườn rau. Hai bên dùng chung cái giếng xây và cùng đi một lối để vào làng.

Nhà của linh mục cũng nền âm, lại thêm bốn ụ đất chống mảnh bom bao quanh nên từa tựa một cái hang. Trong tu phòng chẳng có đồ đạc gì. Một chiếc chõng tre với nệm rơm và gối gỗ, một cái kệ để sách và ảnh thánh. Bên ngoài cửa ra vào treo một cái giá, hàng sáng con chiên trong làng đưa cơm tới để lên giá đó cho linh mục. Mỗi ngày ông ra khỏi tu phong đôi ba lần và hầu như chưa hề đi đâu vượt ra ngoài khuôn viên nhà thờ. ông sống thu mình kín đáo trong vòng chí thánh.

Bỗng dưng ông rời bỏ nhà thờ, rời bỏ làng Diêm, lặn mất tăm. Ngày ông biệt tích trúng với ngày Diệu Nương bị giết. Lập tức sinh ra những lời đồn thổi. Tất nhiên chẳng có bằng cớ gì. Có điều từ đấy trong hầu hết các câu chuyện và các giả thiết về đời Diệu Nương người ta đều thấy thấp thoáng bóng cái áo chùng thâm.

Bản thân linh mục cũng là một số phận xui xẻo. Tai hoạ đến với ông cũng bất ngờ, na ná tai hoạ dành cho Diệu Nương. Nhằm đúng hôm ông lĩnh mệnh bề trên về nhà thờ làng Diêm cai quản xứ đạo thì Việt Cộng đùng đùng đánh lớn. Chiếc xe đò đưa ông từ thị xã về làng chưa kịp vào bến đỗ đã nghe súng nổ ran dọc bờ A Rang. Pháo 130 ly cấp tập nã và xe tăng T54 xuất hiện thình lình trên đường 14 tàn nhẫn cắt lối chạy lui. Hành khách đổ xuống xe xô nhau chạy và đám đông con chiên đang tề tựu để mừng đón cha xứ cũng lâp tức nháo nhào tan tác.

Người ta bảo rằng đúng vào cái đêm khủng khiếp, đêm bọn Mỹ dập pháo và dội bom xuống biển người di tản, tình cờ Diệu Nương nằm kề bên linh mục. Chính ông đã moi cô ta ra khỏi núi xác chết. Và mặc dù khi ấy Diệu Nương chỉ còn là một cái xác loã lồ, bê bết máu me, ông đã làm cô hồi tỉnh, đã cứu sống cô. Ông cưu mang cô từ đấy.

Diệu Nương sống nhiều tháng trong nhà thờ, kề cận cha xứ, y như thể cô là một ma-xơ hay là một người bõ, một người bõ đàn bà. Sống như thế tất nhiên là trái lẽ song giữa hỗn mang đại loạn của thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng điều răn nào là còn hiệu lực, chẳng lề luật nào mà không bị nới lỏng.

Về sau, khi đã bỏ ra sống ở túp lều ngoài rìa làng,Diệu Nương vẫn thường lẻn về nhà thờ với cha. Để xưng tội, chắc thế nếu cô là giáo dân, và tiếp tế cho cha bằng những tặng phẩm mà hàng đêm người này người khác vẫn lén lút đưa tới dấm dúi biếu xén cô. Êy là những thức họ san sẻ ra từ khẩu phần lính mỗi ngày, hoặc là những đồ nhu yếu họ quơ được khi thu chiến lợi phẩm. Diệu Nương nhận quà cáp và ngủ với tất cả, khi thì ở trong lều, khi ở ngoài bờ sông trên bãi cỏ dưới trăng mờ.

Cô là đồ đĩ rạc, song từ bao giờ cô đâm ra thế, cô không nhớ mà mọi người cũng vậy, không nhớ không biết. Không lẽ từ ngày được giải phóng, được đổi đời, cô trở thành đồi bại ?

Rất có thể bản tính Diệu Nương hư hỏng sẵn rồi. Chẳng vậy mà thiên hạ đồn cô gốc gác " thiên nga " ? Ngủ với cô rồi, giữa hai chầu rượu nhiều kẻ kháo nhau về cô, bảo cô là cái ổ của những tật bệnh xấu xa.

Riêng tôi, mà có lẽ chẳng riêng tôi, không coi nết lang chạ của Diệu Nương là hư đốn hay đồi bại gì sất. Đến với Diệu Nương tôi đã được hưởng những phút chưa từng được hưởng bao giờ ở quê nhà ngoài kia.

Nhiều năm qua rồi mà tôi vẫn không muốn quên và thực ra thì cũng không thể nào quên nổi. Bần thần, ký ức tôi mơ màng mộng tưởng ra trước mắt hình bóng của Diệu Nương, khi Diệu Nương một mình đi trên đường vắng, giáng đi mềm mại uyển chuyển đung đưa toàn thân, hay khi cô thẫn thờ ngồi lặng bên sông, hay là khi...

Những khi ấy, trái tim rộn ràng kinh hãi,tôi từ ngoài đêm rẽ manh chiếu Diệu Nương dùng thay mành cửa, bước vào trong lều tối đen.

- Lại đây, anh lính của em. Đừng sợ. Chỉ có mình em trong này thôi.

Tôi bước tới một bước và bất ngờ chạm vào một cái gì đó tuyệt vời, một cái gì đó nóng hổi, mềm mại, dập dờn, một cái gì đó không thể diễn tả. Và ngay lập tức tôi bị du vào một địa ngục ngọt ngào.

- Bạn tình của em, anh tên là gì ? Có phải lần đầu anh tới với em không ?

Tấm thân óng ả của Diệu Nương mà đời sống cơ cực vùng giải phóng chưa kịp huỷ hoại đượm một vẻ gì thật quá đỗi đàn bà, đàn bà hơn tất cả những người đàn bà khác nhập lại. Không chỉ những cái vuốt ve của cô, không chỉ có những lúc cô xuất thần thác loạn, tận lực nồng nàn âu yếm, cô rên rỉ, cô giở trò, cô im lặng hổn hển mà cả khi đã nguội đi, mệt nhoài bải hoải, ở cô vẫn dào dạt ma lực của tội lỗi đàn bà.

- Anh đã đi à, đã đi rồi sao ? – Cô níu tay tôi – Còn lâu mới sáng. Hãy nán lại một lát đã anh. Em còn muốn ngỏ với anh điều này. Chỉ một điều này thôi...

Nhưng không mấy ai chịu nán lại. Càng không ai muốn nghe cái điều duy nhất mà Diệu Nương mong được thổ lộ với người bạn tình thoảng chốc. Không ai muốn nghe bởi không ai có thể làm gì cho điều mong ước ấy của cô. Nó quá tội lỗi, quá đáng sợ, lại hão huyền. Có lẽ Diệu Nương tưởng đâu rằng trên đời này vẫn còn sẵn lắm những kẻ điên rồ dám vì tình mà liều mạng và vì tình mà cả gan làm phản.

Nhưng để lần sau lại có thể dến với Diệu Nương, nói chung chẳng ai dại gì làm cô mất hy vọng, người ta cứ hứa, hứa đại. Lời hứa gió bay.

Bởi vì ai cũng vậy cả nên chẳng ai ngờ rằng ấy thế mà vẫn có kẻ giữ chữ tín với Diệu Nương. Y hứa sẽ giúp cô và y đã y lời.

***

Về sau, khi sự đã rồi, mới nghe nhiều người bảo rằng thực ra trước đây khi còn ở bộ binh Tuấn đã có nhiều dịp ghé làng Diêm và vì thế đã quen Diệu Nương từ hồi ấy. Hồi ấy cánh cao xạ chúng tôi chưa về lập trận địa ở bờ sông A Rang và Diệu Nương hồi âý vẫn đang dung thân dưới mái nhà của vị linh mục.

Người ta kể rằng làng Diêm dạo đó đói dài. Một chút ít lương thực được bộ đội cứu trợ cho hồi mới giải phóng đã cạn. Chính quyền cách mạng ra lệnh tăng gia tự túc. Cả nhà thờ cũng phải tự liệu lấy kế sinh nhai.

Bởi vì một vị linh mục thì không đời nào lại chịu phận cày cuốc, Diệu Nương phải lo làm lụng cho cả hai. Cô theo những người đàn bà trong làng đi phát nương trồng sắn. Nhưng không quen nhọc nhằn, cầm rựa chặt được một nhát là lại một lát cô cám cảnh ngồi ôm mặt sụt sùi. Gần trọn một ngày mà đám nương của cô vẫn y nguyên cây cối lùm bụi.

Bấy giờ có một tốp mấy người lính dừng chân mắc võng nghỉ ở ven sông và họ đã chứng kiến cảnh ngộ của Diệu Nương. Thoạt đầu họ cười nhạo, chế giễu và thương hại thay cho cái giống đàn bà gốc ngụy chẳng khác chi người giấy, quen thói lười nhác, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, bây giờ đây mới được biết thế nào là mồ hôi nước mắt một kiếp người. Nhưng dần dần tình cảnh khổ sở của Diệu Nương nhói vào lòng những người lính nỗi thương cảm. Họ rời võng, đi tới bên cô, họ an ủi và đề nghị được ra tay giup đỡ cô.

Và vậy là từ đầu tối tới cuối đêm, mấy chàng bộ đội xoay trần đốn cây cho nhà chung. Họ phát quang cả một vạt rừng. Lúc từ giã , một người trong tốp bộ đội xưng tên là Tuấn. Anh hứa dăm hôm nữa sẽ trở lại giúp Diệu Nương đốt rẫy. Và anh đã giữ lời.

Rẫy của Diệu Nương được đốt gọn và sạch nhất làng, cháy đều, khốngót một thân cây nào cháy dở dang. Chia tay, Tuấn lại hẹn ngày về cùng Diệu Nương vùi hom sắn.

Cơn mưa đầu mùa, sắn lên xanh non và chẳng bao ngày mà lá sắn đã phủ kín rẫy. Quanh rẫy, Tuấn gieo thêm hạt bầu và trên vạt đất phía sau nhà thờ Tuấn giúp Diệu Nương mở một vườn rau.

Và cứ vậy, không hiểu xoay xở cách nào, cách năm ngày, cách mười ngày, từ chốt vùng ranh ven thị xã, Tuấn băng đồng cỏ về làng thăm Diệu Nương.

Cũng thờigian ấy Diệu Nương rời nhà thờ ra ở túp lều mà Tuấn đã dựng cho cô nơi rìa làng. Hình như nhờ có Tuấn, Diệu Nương đã mất đi cái vẻ não nùng của những ngày mới được giải phóng. Người ta thấy ánh mắt cô long lanh và đôi khi người ta thấy cô mỉm cười.

Có những lần, từ chốt Tuấn lẻn về với Diệu Nương mang theo cả cây ghi ta. Anh đàn khẽ cho Diệu Nương thầm thì hát. Hồi âý cô chỉ hát nho nhỏ thế thôi, nồng nàn, giữa hai người với nhau.

Chắc là giữa hai người đã có sự thề bồi. Chắc là Diệu Nương đã thổ lộ điều ước nguyện da diết nhất của cô. Cô ước được thoát kiếp sống càycuốc cực khổ ở chốn gian lao xa lạ này, cô ước được người đáng tin đưa mình vượt qua chiến tuyến trở về với quãng đời êm ấm thân thuộc trước ngày được giải phóng.

Với Tuấn, vượt hơn mười cây số với những bãi mìn, những điểm chốt chặn không phải là điều không thể. Thêm nữa, ấy là những ngày mở đầu Thời Hiệp định, những ngày bỗng dưng đất trời yên lặng. Mùa khô mà vắng bặt tiếng máy bay và tuyệt nhiên không một phát đại bác.

Say đắm ái tình và bốc đồng hy vọng thái bình, Tuấn đã hứa hẹn. Hứa thật lòng, có lẽ. Chỉ có điều là bỗng nhiên anh biến mất. Năm ngày, rồi hàng tháng trời trôi qua, biệt âm vô tín, Tuấn không trở lại làng Diêm.

Từ đó, lặng lẽ Diệu Nương trở nên ngẩn ngơ và âm thầm cô trở thành sa đoạ. Cô chẳng hề nói gì với ai về Tuấn. Hình ảnh của anh và lời hứa của anh có lẽ đã tàn trong tâm trí cô. Duy có khát vọng tự do thì vẫn sống, vẫn lay lắt. Niềm ao ước cô từng thổ lộ với Tuấn biến thành tiếng hát cất lên dài dại mỗi sáng mỗi chiều. Và đêm đêm Diệu Nương vẫn tìm kiếm những hứa hẹn viển vông, mỗi ngày một viển vông hơn theo đà chiến sự càng ngày càng tàn bạo. Bom đạn tơi bời tàn phá làng Diêm, phũ phàng quét sạch mọi manh nha của hoà bình.

Cho tới một đêm nọ, một đêm mưa, trên đường mò vào nhà thờ với ông cha cố, khi đi tắt qua vườn rau gần lán của những người lính anh nuôi, Diệu Nương chợt nghe thấy văng vẳng tiếng đàn. Lẳng lặng cô đi gần tới, ghé nhìn qua các bụi cây. Đèn dầu lập lờ mờ tối. Diệu Nương không trông thấy người đang đàn, nhưng điệu đàn quen thuộc của những đêm xưa giúp cô nhận ra người ấy.

Thất thần, vô tri giác, Diệu Nương từ từ bước tới cửa lán. Bất ngờ, con Ních từ góc lán chồm lên, sua vang.

- Ai ? Cù vùng khỏi võng, chộp lấy súng, hét.

Diệu Nương lùi lại một bước, và khi tiếng đàn trong lán vụt tắt, cô xoay người chạy.

Cù lao ra cửa. Mưa đổ ào ào trước mặt anh.

- Thám báo ! – Cù quát - Đứng lại !

Dưới một nhoàng chớp bóng Diệu Nương hiện thoáng lên, rũ rươị, xiêu đảo.

- A ! Con đĩ ! Đứng lại, tao thì giết !

Cù gầm lên, phóng mình ra mưa va trượt chân, anh ngã sấp. Nhổm phắt dậy, điên tiết, Cù nâng súng quạt cả một tràng theo tiếng chân đang chạy chấp chới phía trước. Tuấn xô tới, giật súng.

- Thằng ngu xuẩn ! Đồ nông nô !

Tuấn gào, khản đặc, và mê muội đấm vào mặt anh nuôi trưởng. Anh quăng khẩu AK xuống vũng bùn cạnh Cù rồi lao mình vào mưa đêm đen đặc đuổi theo Diệu Nương. Khắp làng ran lên kẻng báo động. Du kích từ nhiều ngả ập tới.

Bình vựa Cù vào lán.

- Bọn du kích tới, mày bảo là không có chuyện gì nhá - Cù lấy ống tay áo lau khuôn mặt ròng ròng nước mưa và máu, nhổ cái răng cửa bị gảya và khó nhọc bảo với Bình - Nói với chúng là tao mê hoảng bắn bừa... Rồi mày đi tìm xem hai đứa chúng nó ra sao rồi...

Anh thở dài :

- Mà tại sao con đó nó lại vùng chạy cơ chứ, hả ?

Rất lâu sau này, kể lại chuyện đêm ấy, Bình ngậm ngùi bảo với tôi :

- Giá kể con đó nó không dính đạn, hai đứa chúng dắt nhau trốn đi ngay trong đêm ấy thì không chừng đã thoát được rồi cũng nên.

Giờ đây ngẫm lại, tôi thấy trong toàn bộ tấn thảm kịch xảy ra hồi đó Cù là nhân vật không tài nào ai hiểu nổi. Chính anh đã cố tình xả súng bắn Diệu Nương, lại cũng chính anh suốt một thời gian dài đã giúp vào việc chăm sóc cô. Cha xứ chỉ chịu hé cửa tu phòng cho một mình Cù. Bông băng, thuốc men, đồ ăn, ông chỉ nhận nếu là do Cù đưa sang. Tuấn bị ông cấm cửa.

Cù và Bình không hé răng hở chuyện. Toàn đại đội không ai biết Cù đã bắn bị thương Diệu Nương. Cũng không người nào hay có vụ xô xát giữa Cù và Tuấn. Càng chẳng ai ngờ có mối tình nung nấu mà mơ hồ giữa Diệu Nương và Tuấn.

Đến kỳ thay phụ bếp, Cù xin đại đội cho tổ anh nuôi được giữ Tuấn lại.

***

Bỗng nhiên, Diệu Nương biến mất. Không nghe thấy tiếng hát của cô nữa. Túp lều ở rìa làng bỏ chơ vơ, trống huyếch, xiêu mọp, ngập cỏ. Người ta đồn rằng cô đã bỏ trốn. Hoặc đã chết. Chết đuối, trôi mất xác. Cũng có thể là chết tan xác vì trúng phải một trái bom, trái pháo giáng trực tiếp xuống đầu.

Mùa mưa năm ấy dài đằng đẵng, buồn ê ẩm. Dần dần tôi thầm hiểu tôi buồn vì nuối tiếc Diệu Nương. Mà không riêng tôi, cả đại đội đều rầu rĩ. Dường như, mất bóng Diệu Nương thì chúng tôi chẳng còn lý do gì để bám lại trên mảnh đất này.

Đột nhiên vào ngày nắng hửng đầu mùa khô, chúng tôi hay tin Diệu Nương vẫn còn sống. Suốt mùa mưa cô ẩn trong nhà thờ để chữa trị vết thương. Nay cô đã gần khỏi. Chỉ có điều nay cô mới thực sự đã bỏ trốn.

Người thông báo cho chúng tôi tin đó chính là ông linh mục. ông ta lần ra trận địa pháo vào lúc tảng sáng, cái áo chùng ướt đầm sương.

- Người của các ông đã cám dỗ cô ta. Cái tên mặt sẹo, dáng vẻ lầm lỳ ấy. Hắn đã bội phản các ông, lại kéo cô ta phản Chúa.

Ông còn cho biết ông đã báo cho Cù ngay khi phát hiện Diệu Nương trốn đi với Tuấn, nghĩa là ngay từ nửa đêm. Vậy mà Cù đã không hề báo cáo gì cho đại đội.

Anh ta đứng đấy, đầu trần, răng nghiến lại nghe chính trị viên xỉ vả.

- Theo tôi, để cho họ đi ! - Cù nói, sa sầm - Còn nếu nhất định phải bắt lại thì chẳng khó. Vết thương cô ta chưa lành hẳn, không thể đi nhanh. Với lại, có con Ních...

Tôi có vinh dự tham gia nhóm tác chiến cùng Cù và hai trinh sát viên. Chúng tôi khẩn trương xuất kích. Con Ních thoăn thoắt chạy dẫn đường, kéo căng sợi dây da trong tay Cù.

Chúng tôi lặng lẽ rảo theo. Hàng dọc, súng lăm lăm. Lệnh trên là kiên quyết không để chúng trốn thoát mang theo bí mật về cuộc hành quân sắp tới của đơn vị.

Chỉ lạ là không hiểu sao dấu vết con Ních dò theo không nhằm về thị xã mà cứ men mãi bờ sông A Rang, ngược lên mé tây đồng cỏ. Phía đó chỉ có rừng rậm.

ý chí đuối dần. Chúng tôi lết đi chậm chạp. Bụi bốc lên dưới chân. Nhiều giờ trôi qua. Con Ních vẫn cần mẫn lần theo dấu vết vô hình lượn ngoằn ngoèo.

Chính vào lúc chúng tôi đã nản, tính chuyện quay về thì hình tích của hai kẻ trốn chạy đã thực sự hiện ra.

Dưới tán một cây kơ-nia mọc đơn độc giữa trảng cỏ tranh, Tuấn và Diệu Nương đã nghỉ chân. Đàn kiến đang tha đi những vụn cơm. Một mẩu thuốc rê vấn bằng giấy báo. Nhưng đặc biệt rõ ràng, hằn trên cỏ, như thể cỏ đã tạc nên thân hình người đang nằm. Một bức hoạ khắc nổi dáng vóc đàn bà, không thể nhầm được...

Chúng tôi đuổi kịp họ trước lúc mặt trời lặn. đã chớm tới vạt rừng đầu tiên ở bờ tây đồng cỏ.

Mệt nhoài, chúng tôi dừng lại trước một dòng suối lớn. Con Ních bị dòng nước xoá dấu vết. Chúng tôi ngồi xuống nghỉ. Im lặng đè nặng lên buổi hoàng hôn màu hồng thẫm.

Thốt nhiên, giữa sự im ắng và tiếng rì rầm của dòng suối, lướt nhanh qua không gian một âm thanh bất ngờ giống như một gợn sóng mỏng.

- Tiếng đàn ! – Cù khẽ thốt lên.

Chúng tôi sững sờ, lắng nghe, hồ nghi. Đã tưởng chỉ là một cảm giác sai lạc, không dè sau một lúc nín thở chờ đợi, chúng tôi nghe thấy khe khẽ tiếng hát.

Lội mau qua suối, chúng tôi nhẹ chân tiến tới. đấy là một dải rừng thông. Những cây thông cao vút, mọc cách thưa. Một tà khói mỏng bốc lên trong chiều. Chúng tôi khom rạp xuống, áp sát.

Một tiếng cành khô gãy dưới chân. Tiếng hát tắt lặng.

Tôi đứng thẳng lên sau một thân cây và căng mắt quan sát. Một cái bếp nhỏ với chiếc hăng-gô treo đung đưa trên lửa. Một chiếc võng dù căng giữa hai cây thông.

Im lặng kéo dài, kéo dài mãi. Tôi gạt chốt AK vào nấc liên thanh.

- Các bạn... Anh em ơi... – Giọng Tuấn - Chúng tôi chẳng làm hại gì cả... Không chống lại ai... Hãy để chúng tôi đi ...

- Câm mồm ! – Bào, trinh sát viên hét - Đứng dậy ! Giơ cao hai tay. Bước ra !

Một phút. Nhiều phút. Vẫn lặng phắc. Cù buông sợi dây da. Tôi thấy con Ních chạy xéo qua, và lát sau tôi nghe tiếng nó sủa ở bụi cây. Tiếng sủa rối rít, mừng rỡ.

Nhưng cũng đúng lúc đó, bụi cây lay động.

" Trong cuộc huynh đệ tương tàn... " - Tiếng hát.

- Đồ điên ! – Cạnh tôi, ai đó gầm lên - Con đĩ ! Này thì tương tàn !

Và tức thì súng nổ. Một khẩu nhả đạn kéo theo những khẩu khác cùng khạc lửa. Chớp đầu nòng nhằng nhằng xé rách lượt bóng tối đầu tiên đang phủ xuống khu rừng.

Bốn khẩu AK cùng bắn hết băng, cùng câm bặt. Bốn chúng tôi cùng lao vọt lên, cùng chết sững.

Sau bụi cây bị đạn băm, hai con người âý quấn lấy nhau. Những vết đạn như càng vặn xiết hai cơ thể vào nhau. Vào chớp mắt cuối cùng, người đàn ông dường như đã cố dùng thân mình đỡ đạncho người đàn bà. Nhưng đạn khoan qua người họ. ¸nh lửa từ bếp lấp loáng trên hai mảng lưng trần.

Chúng tôi đứng chết trân. Màn đêm vây dần lại. Cả bốn chúng tôi như bị trói vào nhau trong sự cam chịu một cái gì vô hình vô tận đang đổ xuống. Mùi thuốc đạn là dấu vết duy nhất của ý chí điên khùng, đã tan đi.

- Ê... ê ... Ních ! Ê... - Cù tru lên gọi con chó đã bị trận mưa đạn xua dạt vào rừng sâu.

Ngồi xuống bên Tuấn và Diệu Nương, tôi gỡ họ ra khỏi nhau.

***

Hai hôm sau chúng tôi nhận lệnh hành quân về phương Nam. Vĩnh viễn giã từ làng Diêm. Tôi đã bình tĩnh trở lại. Cả Cù cũng vậy. Cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước sẽ là lối thoát cho tâm hồn chúng tôi. Chúng tôi sẽ chiến đấu và sẽ quên.

Mùa khô nung vàng đồng cỏ. Và những ngọn gió dại gào hú làm bốc lên những cột lốc đỏ lòm. Những ngọn gió điên rồ như có móng vuốt, cào xé mặt đất.

Chúng tôi chỉ không ngờ rằng chúng tôi đang tiến vào mùa khô cuối cùng của cuộc chiến. Chúng tôi đã bắn chết những người báo trước hoà bình, vậy mà hoà bình vẫn đến.

PS: C2L nhí nhoáy một tí, đọc khoái không thể tả. Hummm
http://nhilinhblog.blogspot.com/

14.4.09

GIẤU ĐI, DƯỚI BÀN TAY DƯỚI MÙA THU

Tác giả : Nhã Thuyên

Tặng bạn đọc của tôi,
những người đang
hít
thở
một cuộc sống của mình

***

Bỏ cuộc rượu vỉa hè để nắm tay nhau mà đi. Gió lồng lộng. Nắng đêm nhóng nhánh lá cây, chảy ướt phố.

Không có gì còn lại: những cái bắt tay, những câu chúc mừng, vài ba bình luận văn chương, câu vè giễu cợt đổi lấy tiếng cười chốc nhát, vị hăng nồng của thứ rượu nhiều cồn lẫn mùi bụi hẻm ẩm ẩm sương xuống và miếng thịt gà dai nghẽn đà nhai… Gió làm quên rất mau. Chỉ có hai cơ thể biết lạnh muốn ôm riết giữa phố đêm và hít hà trái má thơm tho gợi đến cái thèm một trái đào hưng hửng lông tơ giữa đám lá đào nhỏ mau lốm đốm đen tàn trong chiều xuân muộn. Một nét vẽ trong thiên nhiên đôi khi cũng có ý nghĩa như việc nhận ra sự sống.

Tình yêu sẽ mòn mỏi bởi nô lệ cuộc sống. Tất cả sẽ mòn mỏi bởi nô lệ cuộc sống - Tôi nói, thật nhỏ thôi, cũng không dám chắc mình đã phát ra tiếng, gần như vừa nói xong âm sắc đã vô hình, cầu mong chỉ đủ trái tim cạnh trái tim tôi nghe thấy. Tôi không muốn để những trí óc thông minh diễn giải nó là một tuyên ngôn. Từ “nô lệ”, từ “tất cả”, thậm chí cả từ “cuộc sống”, “tình yêu”, - tôi nói với tôi - đừng đọc to, đừng nhấn giọng, bởi nếu không, nghe hãi hùng, hoặc hài hước, và trơ cứng như những chương trình truyền hình nhàm chán các gương mặt, các điệu cười, các câu đùa cợt và cả sự duyên dáng. Mỗi khi phát âm các từ “to tiếng”, tôi đều chờn chợn chính mình, gai gai thịt hoặc đỏ mặt. Người quét rác gom những lá khô đẫm bóng tối như những tấm giấy cũ vàng vào chiếc thùng xe bè bè mang dáng một con cóc, lặng lẽ. Nỗi ảo não đến rất nhanh. Tôi rất dễ thất vọng về đời sống. Dù tôi yêu đến từng cái lá, tôi muốn gom giữ cả những chiếc lá chưa kịp thành hình đã bị sâu gặm, viền đen lại như băng tang. Tôi muốn giữ cả những con sâu nữa. Chẳng muốn mất đi một chút nào hình ảnh của cuộc sống trong óc. Cuộc sống, một từ rộng quá, lòng yêu nào ôm nổi? Đâu là cuộc sống mà chúng tôi đang đợi đến?

Cuộc sống nào? – Tôi cũng không dám chắc đó là lời anh.

Chúng ta sẽ…

- Anh yêu em.

- Anh yêu em.

- Anh yêu em.

Những âm thanh mỏng nhất đồng thời dẻo dai nhất.

Chúng tôi quấn lấy nhau. Anh dụi vào tôi như trẻ nhỏ. Tôi là Kẻ Chở Che. Tôi là một Bình Yên. Tôi là Cuộc Sống viết hoa của anh? Còn anh, là phần máu thịt còn lại trong cuộc sống của tôi, tạp nham hơn, bải hoải hơn, rộn rã hơn, bung xung hơn và tôi không bao giờ thiêng liêng hóa nó bằng một từ viết hoa. Anh là những hạt cát trong bãi vàng thau lẫn lộn của tháng năm tôi. Tôi yêu một cuộc sống không tín ngưỡng.

Chúng tôi yếu đuối. Và vui thích. Và nếu như tôi là hương thơm, tôi sẽ tan vào da thịt anh và ngủ trong đó, mãi mãi. Nếu được từ giã đời sống theo cách đó. Luôn luôn, chúng ta muốn từ giã đời sống theo một cách êm đẹp bình an. Tôi không chán nản cuộc sống. Tôi muốn từ giã cuộc sống để được một đời sống khác, biết đâu, ở kia, ở đó, ở đây, ở nơi khác, ở nơi này…Ứa nước mắt. Và lại muốn mỉm cười. Tôi không thấy mỉa mai những cảm xúc chảy mềm của cơ thể. Tôi cũng không bao giờ phải biện hộ về sự yếu đuối. Da thịt chúng ta cũng đủ cứng và rất dai rồi.

Cuộc sống buồn. Cuộc sống nào buồn? Không lẽ, tuổi 20, chỉ quan sát thôi đã thấy yêu nỗi buồn thắm thiết như một người tình. Thậm chí tôi luôn nghĩ lại, nếu không yêu (anh), có lẽ tôi đã tự sát thành công. Chẳng cần có thêm một cú shock nào để nghĩ đến chuyện tự sát. Lấy những đau khổ trong quá khứ ra ngắm nghía, chỉ là một ve vuốt giả dối và che đậy sự ích kỉ với đời sống hiện tại mà thôi. Mất cha ư? Bị bỏ rơi ư? Yêu những tình yêu nhầm lẫn ư? Còn gì nữa… Chẳng có lý do gì để tự sát. Chỉ vì một cảm giác mà thôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình là kẻ đau khổ và bị số phận dày vò, ngoại trừ chính tôi là một hiện thân nhảm nhí của hai từ “số phận”. Vậy mà quả tình tôi luôn nghĩ lại, nếu không yêu (anh), có lẽ tôi đã tự sát thành công.

***

“Thế rồi mày đi đâu? Mày ngủ ở đâu đêm qua? Mày có biết bao nhiêu lần rồi không? Mày còn muốn như thế nào nữa. Tao quá thất vọng về mày. Người ta sẽ nói tao như thế nào. Tao không dạy được mày. Mẹ nói rất to, chưa bao giờ nói to vậy. Giọng mẹ run đến nỗi anh hình dung rõ môi và gương mặt mẹ lúc đó.

Mẹ rất giận dữ. Và rất đau lòng - điều làm anh không xúc động, nhưng làm anh suy nghĩ. Anh không muốn làm mẹ buồn. Lúc đó chúng ta không nhớ gì cả. Quả thật. Cũng không nhớ để gọi cho mẹ.

Em cũng vậy. Cũng như mẹ em. Mẹ em thường đau lòng vì những điều em không còn tin nó đáng để gây ra nỗi đau. Chúng ta đã đau những nỗi đau khác. Những điều khác. Nhưng em không bao giờ phản ứng. Nhưng em cũng không xúc động. Lúc đó, em không nghĩ là anh ở lại. Em đánh thức, nhưng không nỡ. Tại vì anh đang ấm. Và em đang ôm anh. Lúc đó, em có nghĩ đến. Nhưng em không nhớ để gọi điện, quả thật. Em chỉ thấy bứt rứt. Một cái gì đó. Lẽ ra không nên vậy. Ở Việt Nam mình. Hoặc là, không phải ở nơi này. Chúng ta khác mẹ. Và trong óc nhiều người, Việt Nam, không phải phương Tây. Nhưng thực tế những điều đó chẳng phương Tây cũng chẳng phương Đông.

- Anh yêu em - Anh nói, khẽ như một mỉm cười thoảng qua. Và chỉ một giây nàng nhận biết được điều đó.

- Không phải ở nơi này - nàng nói. Họ nháy nhau, mỉm cười trở lại. Kèm một ánh nghịch ngợm”.

Tôi định viết “Một câu chuyện được xâu lại bằng đối thoại”. Như trên, chẳng hạn. Tôi ngồi và gõ lại những đối thoại hiện ra trong óc. Chúng tôi luôn nói với nhau rất ít, ít nhất có thể. Những gì chúng tôi nói có thể đếm được, vun lại chắc chừng được một vốc từ. Chúng tôi trao đổi bằng cách nào không rõ. Vậy mà đôi khi vẫn muốn nổ tung ra như thể phải nghe nhau nói quá nhiều. Quá nhiều điều không cần phải nói. Tôi muốn viết. Muốn viết. Tôi đang viết. Nhưng gõ lại đời sống là một việc buồn, bởi luôn đem lại cảm giác vô nghĩa, và lực bất tòng tâm. (Từ “bất lực” mang nghĩa khác, với tôi, tất nhiên là rất nên kiệm dùng). Tôi vẽ ra những tiếp xúc, những chuyến đi rộng dài trải nghiệm đời sống thực. Nhưng không phải, không phải. Cái gì là thực đây, khi chính bàn phím trước mặt tôi đây cũng có thể chỉ là một hoài nghi? Viết là một sự rất buồn, rất nhàm tẻ so với đời sống sinh động, hoặc đời sống tưởng là sinh động trở nên hết sức rời rạc, so với những mảng khối và độ giãn nở không hề vô hình của chữ. Tôi muốn viết để bạn đọc đọc thấy đời sống của mình, nhưng đời sống đó phải được đúc lại, và lọc qua một lớp từ rất trong.

***

Bạn đọc của tôi, những người đã từng dành chút thời gian đọc những gì tôi viết, tôi quả tình chưa bao giờ có ý muốn làm mụ mị ai bởi những từ ngữ rối rắm. Tôi nghĩ rất nhiều về những câu chuyện. Tôi thích kể chuyện, có lẽ từ thuở bi bô tập nói.Tôi ham nghe kể chuyện. Tôi muốn giữ lại hết những câu chuyện tôi biết, tôi nghe, tôi đọc. Nhưng càng kể lại, tôi càng thấy những câu chuyện đâu thể hiện diện đúng nghĩa chỉ bằng cách kể lại. Chúng chen lấn, và làm bội thực trí nhớ nhiễu thông tin. Tôi muốn kể bằng im lặng.

Bạn hỏi tôi: có phải những câu chuyện đã mất đi. Những câu chuyện mất đi đâu? Chẳng bao giờ, thưa bạn. Những câu chuyện tôi viết luôn hiện diện bằng cách mà tôi luôn ép mình: giấu đi.

Giấu đi, giấu đi, giấu đi.

Có đáng kể gì đâu, tất cả những điều này? Đáng kể biết bao, những điều này! Nhưng tất cả, hãy giấu đi, giấu sâu xuống dưới làn da của lớp chữ, trong thịt, trong máu chảy và trong lục phủ ngũ tạng của chữ… Hãy kể bằng im lặng, bằng mắt tôi nhìn bạn vờ như lơ đãng, và tay tôi nóng ấm bối rối đặt trên đùi, khi ngồi đối diện bạn một gương mặt lạnh. Muốn biết những câu chuyện của tôi, bạn phải đọc qua những lớp da. Phải biết rạch ra những lớp da bọc ngoài, nếu nó ở sâu hơn. Bạn đọc, phải thở cùng tôi, và thở theo nhịp của bạn. Đôi khi, chừng như tôi làm bạn đau. Đừng tin rằng sự khó hiểu là mù mịt. Bởi tôi không cố ý làm dáng trong văn chương. Và cũng đừng tin ở những nhà phân tích. Mỗi người chỉ được sở hữu một hơi thở mà thôi. Cũng đừng tin tôi. Bởi không phải bạn đọc tôi - hay đúng hơn bạn đọc tôi bằng con người bạn, đúng hơn, bạn đọc chính bạn. Và tôi, tôi chẳng bao giờ hiện diện trong trang sách. Chẳng bao giờ bạn tìm biết được tôi. Mỗi lần tôi đọc lại tôi - ôi, quả tình nếu tôi có thời gian, có lòng kiên nhẫn, có đủ tự phụ và có đủ sự trơ trẽn không xấu hổ, hay không có trí nhớ để quên ngay được những thứ vừa viết ra, tôi sẽ đọc bằng những tôi khác nhau. Vậy là, cô đơn làm sao, bạn đi tìm bạn mà bạn tưởng đang đọc tôi, tìm tôi. Tôi đọc tôi đây, mà hóa ra, tôi tưởng vậy thôi. Người bạn đọc của tôi, tôi nói vậy, có dài dòng không? Tôi có quá nhiều thời gian ngồi một mình, và vì thế, tôi chạy theo ý nghĩ…

Quả thực, đây đâu phải là lần đầu tiên tôi muốn bày ra một câu chuyện, ngay từ đầu. Tôi muốn dựng một không gian tôi đang sống. Ngày thường. Những người tôi đang cùng sống. Tôi muốn mô tả, muốn bày ra, mà không phải đi quá sâu vào mình. Tôi bé nhỏ và yếu ớt biết bao trong thế giới từ ngữ.

Không phải, nếu tôi kể lại, mô tả lại cho bạn thấy, các bà mẹ nổi giận như thế nào. Nỗi đau của họ. (Sao lại họ, như một người lạ). Không phải, nếu tôi tường thuật lại những diễn biến của sự kiện, của việc đã xảy ra. Không phải. Nếu đúng là tôi đang tìm viết về đời sống, thì tôi không có cách nào khác là giấu những câu chuyện đi. Giấu đi! Giấu đi! Giấu đi! Còn nếu bạn cần kể chuyện, tôi chỉ có thể tặng bạn một bịa đặt lam nham sẽ làm bạn mệt. Chẳng phải, bạn đang sống trong cả một thế giới những câu chuyện hay sao? Bạn chẳng phải bội thực vì chuyện trên báo chí, trên đường, chuyện tâm tình bạn được nghe, và những câu chuyện của chính bạn đang làm bạn ngạt thở mà không sao thoát khỏi tấm lưới bùng nhùng của nó để đằm mình vào giếng sâu lạnh giá của trầm tư, để khỏi phải khốn khổ vì không ai đủ khả năng, đủ thời giờ và lòng cảm thông để nghe thấu những câu chuyện bạn chất chứa…

Chúng tôi chỉ còn biết nói với nhau những câu bằng ý nghĩ hơn là âm thanh. Những đối thoại thầm lặng - đó cũng là điều tôi cần phải viết. Bởi những đối thoại cũng là một cách giấu đi những câu chuyện của tôi.

***

Tôi đã giấu đi. Bạn hãy rạch ra đi, như đôi lần, bạn muốn cầm lưỡi lam kia rạch vào làn da mỏng của bạn. Nếu bạn tìm câu chuyện, thì ở dưới những từ ngữ, và những đối thoại, bạn có đọc được một mảnh đời sống đang diễn ra không, một câu chuyện nào tôi kể không? Tôi thấy mình, cũng như bạn, thèm khát bạn nghe thấu những câu chuyện tôi kể. Tôi đã buồn biết bao khi bạn nói “những gì tôi viết chẳng có chuyện gì cả”. Tôi chẳng có một câu chuyện nào để kể cho bạn, để bạn được kể lại cho ai đó làm quà vui. Tôi chẳng có câu chuyện nào bày ra, vì quả thật, tôi chỉ làm một điều: giấu những câu chuyện của tôi đi, và để bạn tìm, và chính bằng cách đó, tôi cũng đi tìm. Mà chính vì thế, bạn chẳng thể nào kể lại. Mỗi người chỉ có thể tự tìm lấy câu chuyện của mình mà thôi. Những câu chuyện dưới giếng sâu của tôi, chúng tẻ nhạt quá phải không?

Mùa thu đến rồi, và tôi lại ngẩn ngơ và hân hoan ngắm những bàn tay giấu dưới những mùa thu. Tất cả chỉ đến khi chúng ta biết đợi chờ, biết kiên nhẫn, biết mãnh liệt và biết hít thở. Thở khẽ thôi, để những hơi bạn sống không đứt gẫy giữa chừng bay trong không khí, và để, chúng ta gặp nhau, thở ra thở ra, hít vào hít vào, chẳng cô đơn... Tôi không nỗ lực, nhưng trong thời gian tôi đang sống này, tôi vẫn muốn kể cùng bạn, một cuộc sống trong ngôn ngữ và bạn lắng nghe này, những chuyện kể dưới lớp da của từ và móc nối trong các đối thoại hàng ngày của chúng ta.

Tôi vẫn thường tự lảm nhảm một mình, với mình, nếu không yêu (anh), có lẽ, tôi đã, hoặc chắc chắn, tôi đã tự sát thành công. Nếu đó là một cảm giác, bạn có đọc được cả một câu chuyện dài, từ hơn 20 năm tuổi của tôi không? Và đọc bằng những năm tháng đã qua của tuổi bạn…

28.2.09

14.01.09

"Nếu khi nào được rảnh . Sẽ ngồi im . Để uống cafe"
CIAO
Một buổi chiều có ba mươi phút vắng người hiếm hoi Ciao. Giá như giọng Sade đừng gợi cảm như thế thì tôi đã có cách từ chối việc nhận lại J, một người tình cũ trong đời.
(Cái còn lại mãi mãi là cái không bao giờ nhìn thấy được)
Tôi gặp J khi ngày đã muộn.
Dẫu là mưa Hà Nội vẫn duyên dáng gió. Ciao café vắng người trong ba mươi phút. Ba mươi phút của một buổi chiều hiếm hoi để tôi nhớ J, nhớ ngay khi vừa mới gặp. Sáng mai tôi sẽ lại bay chuyến bay đầu tiên trong ngày, rời thành phố này của tôi, mà đi.
Nhạc Sade dìu dặt gợi nhớ, một người tưởng rất giống J bây giờ, đã của tôi mà không là của tôi.
J đến bên bàn, lấp đầy khoảng trống thời gian bằng một câu dễ gây nước mắt:
- “Sao trông em buồn",
***
"Sao trông em buồn?”
Thời gian này Hà Nội rất ít đàn ông đến cạnh ai đó để tìm câu trả lời cho một thắc mắc tưởng vu vơ.
Trên chuyến bay trở về cách đây ít lâu tôi nhìn tấm ảnh trang bìa tạp chí Heritage mà hốt hoảng. Khuôn mặt trong ảnh tấn công tôi phũ phàng trong những giây đầu tiên, làm tim tôi đau nhói.
J.
Đã nổi tiếng, đã là khuôn mặt dễ nhận ra trên rất nhiều trang bìa tạp chí của cái thành phố nhỏ bé này, một khuôn mặt quen. Mình có ngờ được một ngày khuôn mặt của người đã từng yêu, đã tưởng không thể thân thương hơn thế lại làm mình sợ hãi, như thể người ta đang ở ngay trước mình, như đang soi vào tim mình mà hỏi cái câu tưởng chừng đơn giản nhất: “Lâu rồi em thế nào?”
Lâu rồi tôi ra sao?
Lâu rồi tôi làm gì?
Bỏ nhau đi đã kịp yêu thêm một mối tình lớn, mối tình đã lấy của tôi năm năm và có vẻ còn sẵn sàng lấy của tôi nhiều năm hơn thế nữa, dù tạm thời trong những ngày Hà Nội - Paris này, mối liên hệ duy nhất để vẫn của nhau chỉ là tấm vé hãng Air France có thể thay đổi ngày giờ bất kỳ lúc nào.
Và đây Ciao, tôi thấy mình buộc phải trả lời nhưng tôi không biết trả lời sao cho không phải rơi nước mắt:
- “Anh sẽ làm gì để thoát ra khỏi một tình yêu đẹp?”
***
Tôi có một thói quen khó bỏ đó là ít thay đổi thói quen.
Về Hà Nội là đi Ciao café, chốn hẹn hò đông người.
Hình như tôi đã đến nơi này hàng ngàn lần trong đời, ngàn lần đó có trăm lần đến với những người yêu. Tôi đã nghe từ Sade “love deluxe” đến Sade “lovers rock » ở đây, cùng với họ. Hay tại vì cô gái da nâu mắt to giọng trầm Sade hát “I am the King of sorrow” làm tôi buồn loãng và quên?! Đến nỗi bây giờ tôi không thể phân biệt rõ ràng người yêu nào với người yêu nào khi đều gắn họ với cô. Đến nỗi có mỗi cái ảnh trên bìa tờ tạp chí chỉ cần xem mà không cần phải đọc cũng làm tôi hốt hoảng. Đến nỗi một câu hỏi chừng như gần gũi thái quá sau rất nhiều rất dài rất xa cũng đủ làm tôi xúc động, những mong lại được chia sẻ với người:
- “Sao để thoát ra khỏi một tình yêu được coi là đẹp?”
Rồi thế là J tiện thể ngồi xuống bên cạnh, gọi thêm café và tiêu tốn thêm cả một buổi chiều cùng với tôi.
Một buổi chiều có ba mươi phút vắng người hiếm hoi Ciao. Giá như giọng Sade đừng gợi cảm như thế thì tôi đã có cách từ chối việc nhận lại J, một người tình cũ trong đời.
Tôi có cần gì thêm trong nỗi cô đơn của một người đàn bà bị tàn phá và cướp mất bản thân cho một tình yêu năm năm màu sắc bằng lên xuống nước thủy triều? Có thể tôi sẽ lấy E, sẽ tồn tại bên cạnh tình yêu của E mãi cho đến cuối cuộc đời, như một kẻ hèn nhát đã tình nguyện thất bại ngay từ lúc khởi đầu.
Dẫu tôi vẫn luôn tự hỏi rằng tình yêu đã có rồi đi đâu sau lời chia tay?
Chẳng có gì mất hẳn đi trong đời, nó chỉ chuyển từ dạng tồn tại này sang dạng tồn tại khác, như nước bốc lên thành hơi nước bay đi, như cái khăn lụa nhỏ hôm nào tôi bỏ quên trên tàu điện ngầm, tàu chạy rồi mới kịp nhớ, có ai đó sẽ nhặt nó lên, sẽ quàng cho đến khi mùi nước hoa của tôi trên đó lạt đi thành một làn hơi...
Chỉ có điều này thôi, giá như tôi có thể ngoảnh nhìn lại tình yêu qua đi mà vẫn được mỉm cười?!
***
Còn ở lại Hà Nội mấy ngày là còn đi Ciao cafe.
Bạn bè hỏi thăm về E, họ không để tôi kịp quên người yêu, người yêu mà vừa cách đây không lâu mua nhẫn kim cương một carat hỏi cưới tôi làm vợ.
Vậy là cầm tay nhau kiểm tra cái nhẫn trên ngón áp út, vậy là đành phải kể: một buổi chiều trên đảo Bali, mặt trời lặn ở biển, E quỳ xuống trước tôi đang mải cầm quyển sách mà nhớ thương vô cớ, rằng sao mỗi mặt trời lên hay lặn đều gắn với một người tình, mà mình đã sống nhiều nhặn gì đâu cho cam, ba mươi tuổi sao đã nhiều lời cầu hôn? Đến nỗi để lần này với E tôi hoảng hốt mong đó là chuyện đùa, tôi đã yên ổn sống và yêu năm năm tròn cho đến giờ phút đó.
Tôi bật dậy khỏi E và chạy. Tình thế có vẻ bất ngờ đầy kịch tính. E đuổi theo giữ lấy tay ghì tôi ở lại, tránh đi một hiểu lầm rất dễ làm bẽ mặt tình yêu:
- “Anh không đùa đâu, em có muốn làm vợ anh không?”
Câu hỏi gây sốt, tôi không biết cách trả lời, thực ra tôi chưa từng một lần biết trả lời bằng cái cách mà cả tôi lẫn người yêu tôi mong đợi. Tôi nước mắt cho tất cả những lời cầu hôn trước nữa.
Vậy là đồng ý rồi nhé, nước mắt hạnh phúc bất ngờ chảy xuống ồn ã thế kia cơ mà, vậy là nhẫn một carat đeo vào ngón tay từ bấy rồi nhé.
Kể lại với bạn bè mà thấy ngại, họ có yên tâm không về cái lần bạch kim lẫn kim cương này khi tất cả họ đều vẫn nhớ để hẹn hò tôi ở đây, nơi những người tình tôi đã đến và đã đi?
***
Hình như J đã dùng hết tình thân mật cho phút gặp lại đầu tiên nên giờ không thể nào tự nhiên hơn được nữa. Cũng có thể câu trả lời như một câu hỏi của tôi làm J khó bắt nhịp. Hay J nghĩ đó vẫn chỉ là tôi với một câu hỏi vu vơ, chẳng phải dành cho tôi và J nên J sẽ không ngại tiêu tốn cả một buổi chiều với tôi trong im lặng.
Ngón tay J đeo nhẫn.
Tôi chưa bao giờ quên ngày cưới của J, thiếp mời đề ngày 23 tháng 11. Hôm đó sinh nhật E, tôi mải nấu nấu nướng nướng tiệc tiệc tùng tùng đến tận mười hai giờ khuya, mười hai giờ khuya Paris đã là sáng ngày hôm sau Hà Nội, giờ đấy chắc người cũ của tôi và vợ đã trăng mật xong mất rồi. Tôi khóc. Không phải vì buồn tiếc. Tôi bỏ cả Hà Nội đi từ bấy, lẽ nào tôi vẫn giữ lấy được một J? Tôi chỉ khóc vì tôi đã quên mất ngày hôm ấy. Đàn bà nhớ cả màu áo sơ mi người tình đã mặc, giữ trong nhật ký hai tấm vé xem phim cùng nhau lần đầu, thế mà tôi, tôi quên ngày cưới của họ cho mấy ly vang không ngon không dở.
- “Em có gia đình chưa”?
Hóa ra J chẳng hề biết gì về tôi, chừng đấy năm tôi sống thế nào chắc J lại càng không thể biết. Dù để biết về tôi đâu có khó. Bạn bè cũ vẫn đấy, họ vẫn đến Ciao ăn trưa ăn tối cùng nhau, chắc vẫn thường nhắc tên tôi, chắc đã gặp J ở đây không ít bận. Có lẽ tất cả những lần nhìn thấy J, J đều đi cùng vợ, không chừng vợ còn đi cùng với hai con trai nhỏ, nếu không thì nhờ họ J đã biết tôi đang chung thủy đến mức nào, tôi đi bên cạnh tình yêu của E năm năm rồi đẹp đẽ mà không tạt ngang tạt ngửa, không một lần buộc phải chọn lựa giữa E với bất kỳ ai.
Ngày mai tôi sẽ lại lên chuyến bay hơn mười tiếng để về với người tình thương mến hứa hẹn sẽ tốn nhiều thời gian cho nhau hơn thế nữa.
Nhưng lúc này đây sao bỗng dưng nhớ một bàn tay, tay chưa bao giờ vô tình đơn điệu hèn nhát phũ phàng, tay chia sẻ bao hạnh phúc, tay chứng kiến từng giờ khắc yếu lòng cởi mở nhất, tay từng lướt trên dương cầm tôi những cung bậc mượt mà, tay từng đốt lò sưởi tôi rực rỡ nồng nàn.
Tay giờ đeo nhẫn mất rồi, để tôi ngồi cách có một cốc café mà xa vời vợi, mà thèm được nắm lấy, áp má vào êm mượt dày ấm thảm Ba Tư mùa đông, mặc kệ cái nhẫn như gai hồng ngạo nghễ sẽ đâm vào vết bỏng.
Ngày mai tôi sẽ lại bay hơn mười tiếng dài nhưng lúc này đây tôi chỉ xin có mỗi một bàn tay, nỡ nào J từ chối ?!
Lúc này đây tôi chỉ xin có mỗi một bàn tay, ngày mai tôi đã lại bay chuyến bay hơn mười tiếng dài, lẽ nào E rộng lượng của tôi còn đòi hỏi gì hơn?!
Tôi với cả hai tay mình sang phía J, tiện thể nhặt lấy cái mũ của anh đội lên đầu, rồi vẫn giữ nguyên tư thế ấy tôi nhìn, không nói không cười không sốt ruột không chờ đợi. Tôi nhìn J đang nhìn tôi như nhìn một cô gái nào khác lạ, vẫn là tôi mà không phải tôi với cái mũ nồi kiểu lính lê dương muôn thuở của J trên đầu. Như một đêm nào đã rất xa xôi cô gái dải lụa nâu buồn ấy quấn chặt lấy J, vắt kiệt tình yêu J bằng mắt bằng môi bằng cái mũ kiểu lính lê dương trên cơ thể gầy không áo quần chằng buộc. Có lẽ sự gợi nhớ làm J xúc động nên mắt J có khói, J đặt tay lên hai cánh tay tôi, không nhìn vào mắt tôi đang nhìn J mà thầm thì:
- “Đi với anh, đến một nơi chỉ có hai đứa mình, hãy đi với anh”.
Tự nhiên xuất hiện như việc xuất hiện của cái mũ trên đầu, tôi để yên tay mình trong tay J, dè sẻn từng cử chỉ để đừng làm hỏng đi cái điều đã được bảo toàn, cái điều đã bị tách ra khỏi quên lãng.
Tôi không nỡ hỏi J “đi đâu” vì tôi biết ngay cả tôi cũng sẽ không có câu trả lời.
Dù tôi đã luôn muốn mang tình yêu của chúng tôi đến một nơi nào khác Hà Nội duyên dáng gió, nơi không còn Ciao, không còn Sade nồng nàn như một hơi thở “I am the king of sorrow...” để nhận dạng tình yêu, để phủ nhận cái mong manh dễ vỡ, để đừng nhìn thấy rồi có ngày ai đó sẽ ra đi mà người ở lại không phải bất ngờ và cũng không cần đòi hỏi lý do.
Và lúc này đây, J nhìn tôi như nhìn một tấm ảnh cũ, một tấm ảnh cũ nhặt được khi tình cờ mở một ngăn tủ cũ, ở tận dưới đáy ngăn, nơi góc khuất cùng nhất lăn lóc rất xa ngoài vùng của cuộc sống thường nhật. Nhìn và nghĩ, bắt đầu chỉ là một bức ảnh nhòa, không phảng phất chút hương nào của thói quen xưa, khuôn mặt trong ảnh chỉ là một phiến rời của ký ức, nhưng hóa ra nó, cái mũ, lại chính là một dấu chấm nặng đánh dấu một phần đời đã có, đã đi qua, cái - mũ - tại - một - thời - điểm ấy lại chính là một dẫn đường, một thúc giục tình cảm sắc nhọn đánh thức trong J gần như một cần thiết, gần như một thân yêu, thân yêu đó làm người muốn khóc, cần thiết đó làm người phải bật lên:
- “Đi với anh, hãy đi với anh đến một nơi khác nơi này”
Chỉ vì mọi sự ra đi đều như một bài hát cũ kỹ buồn ta từng nghe đi nghe về trăm bận mà không còn thực sự lắng nghe để biết nó còn hay không hay là đã dở. Không phải J thì có nghĩa là tôi.
Tôi đã từng bay chuyến bay tương tự ngày mai, của hơn năm năm về trước mà không kịp cho J thời giờ để hiểu tại sao, bởi tôi đã không chấp nhận người đàn ông không chịu phản ứng gì, vô ý dẹp đi những tấn công của tình yêu bằng yên lặng và khá nhiều vị tha. Bởi không phải J chỉ mất đi một đôi mắt nâu đã tan chảy như mật trên từng lớp biểu bì của tấm lưng anh rộng trong đêm cuối cùng tôi quyết định xa J mà J sẽ mất đi nhiều hơn thế nữa, J sẽ mất đi cái duy nhất còn khiến sự bao dung độ lượng của anh mang ý nghĩa. Tôi đã kiên trì xúc phạm vào sự thiếu vắng của chính tôi trong tình yêu J, kiên trì đi đến tận cùng của nó để hiểu rằng một đàn ông đẹp cỡ J sẽ làm tôi cảm giác thiếu an toàn chứ không phải tình yêu tin cậy vô điều kiện của anh giành cho tôi mới khiến tôi ra như vậy.
Vì mọi ra đi rồi cũng chỉ cũ kỹ như một bài hát buồn. Chẳng phải J thì có nghĩa là tôi:
- “Không, ngày mai em đi Paris rồi”.
Có thể mắt nâu lại bỗng sẵn sàng tan chảy nên J sực tỉnh, J đứng dậy, rời tay khỏi tôi, bối rối trong giây lát nhưng đầy nhẹ nhõm và ơn nghĩa:
- "Thì hy vọng gặp nhau một dịp khác khi em về lại Hà Nội vậy”.
Tôi gật đầu trong yên lặng. Có những cái hẹn mà cả người hẹn lẫn người được hẹn biết là không ai giữ nhưng họ vẫn phải hẹn.
Bởi ngày mai hay ngày nào đó trong đời, tôi có thể trở lại giây phút này không, tôi ba mươi tuổi lạc lõng như chính cái mũ trên đầu lẳng lặng nhìn chủ nhân của nó rời đi, khuất sau góc quán, biến mất trong giọng buồn Sade dìu dặt tỏa hương «I’ve cried so many one’s tears … »
Bởi những gì đã có với J mới làm tôi ra đi.
***
Có thể tôi sẽ khóc trên chuyến bay hơn mười tiếng dài ngày mai vì biết rằng ở cuối chuyến bay ấy E sẽ đợi, sẽ cầm lấy tay, và tôi sẽ nói, như thầm:
"Thôi mình hãy đi về nhà",
như sau kết thúc một cuộc hành trình.
Như những gì chưa có với E mới làm tôi ở lại.
( Đường Hải Yến )
PS : EMi :*

Nhảm for 17 December 2008

VÌ SAO CÔ ẤY RA ĐI ?
Đó là một đêm kì lạ.
Sinh quen cô trong một quán bar. Ấn tượng đầu tiên và có lẽ xuyên suốt đến bây giờ là một cô gái mỏng manh ngồi lặng ở một nơi đông người. Người ta thường bị cái lạ thu hút. Nếu Sinh gặp cô ấy tại một nơi vắng vẻ như chỗ tập Yoga thì chắc Sinh không bị cuốn hút đến vậy. Cái cằm nhọn, ánh mắt hoang hoải và dài dại, rất lạ. Đôi môi mím như thách thức bất kì một chàng trai nào đó.
- Chào em. Một ly vodka nhé.
Cô gái không nói mà chỉ nhẹ nhàng cười như là đồng ý mà cũng như không.
Sinh thú vị với cái cười ấy lắm và cũng không thể không gọi hai ly vodka. Vodka trong suốt và ấm nồng. Loại thức uống chống lạnh của người phương Bắc bây giờ tràn ngập Hà Nội và cả một số vùng lân cận.
Sinh nhích người lại gần cô. Hình như không có sự chống đỡ nào dẫu là một chút làm duyên. Sinh cảm nhận bờ môi cô gái có nhếch lên một tí. À kiểu mèo vờn chuột này thật thú vị, ánh đèn quán bar càng làm cho không gian mờ ảo. Sinh bạo dạn hẳn lên. Anh nắm nhẹ bàn tay cô gái và nhận ra bàn tay lành lạnh khác hẳn với hơi ấm cơ thể mà Sinh cảm nhận được. Sinh ghé tai hỏi như thoảng qua:
- Em tên gì?
Vẫn là cái cười nhẹ như có như không của cô nàng kì bí này.
Sinh không hỏi nữa, một cách bất ngờ quàng tay dìu cô ra sàn nhảy đi một điệu van.
Cảm nhận về thân thể nồng ấm và đôi bàn tay lạnh cùng cái cười rất khó hiểu. Tiếng nhạc du dương làm con người mau say. Không biết đêm đó vì nhạc, vì cô gái hay vì rất nhiều vodka mà Sinh thấy mình không làm chủ được mình.
Khi Sinh và cô đang ở trong căn phòng xa lạ của một khách sạn gần đấy Sinh cũng không hiểu cái gì đưa mình đến đây. Ban đầu là đôi môi, rồi Sinh thấp dần. Cảm nhận mùi ngai ngái của loài cái trong mùa động đực, và cả mùi thơm nhẹ nhàng ở đâu đó mà Sinh không định hướng được. Cô gái ép sát vào Sinh, Sinh vẫn nhận được hơi ấm của cơ thể. Khi Sinh đi vào cô, hình như có một tiếng thở dài ở đâu đó.
Phía trên trần nhà có một con thằn lằn cụt đuôi đang ngọ nguậy.
Họ tìm kiếm trong nhau.
Sinh không hiểu được vì sao trong lúc cao trào anh lại cảm như mình đang rơi vào một hố thẳm.
Anh ôm cô gái vào lòng, nhẹ hôn lên mái tóc, hành động mà chưa bao giờ anh làm sau khi làm tình với các cô gái trước. Mắt cô gái long lanh nước mà lại thẳm sâu những gì thật lạ. Và như không tự chủ được, anh tỏ tình với cô.
Hình như chặng đường dài hơn ba mươi năm anh đã tìm được nơi dừng chân. Cảm giác hạnh phúc với một cô gái hoàn toàn xa lạ. Mà lại rất quen, tựa như ở đâu đó trong anh từ rất lâu.
Rất lâu, khi Sinh thức dậy choáng váng vì hơi rượu đêm qua. Đầu tiên là anh quờ tay kiếm tìm. Sự trống trải làm anh giật mình. Đêm qua vẫn còn quanh đây. Con thằn lằn cụt đuôi vẫn còn nằm dài trên trần nhà. Hình như nó đã không đi đâu xa. Sinh vẫn nghe mùi hương bên cạnh, như một giấc mơ. Anh vẫn nhớ rõ đêm qua, rượu, cô gái, lời tỏ tình, niềm hạnh phúc, và cả lời níu giữ của anh. Cô ấy ở đâu chứ? Vì sao cô ấy lại ra đi lặng lẽ vậy?
Anh ngồi dậy, thấy đầu nặng nề, với tay lấy cốc nước. Có một cốc nước lọc để sẵn trên bàn, chắc chắn là có ý dành cho anh. Uống xong ly nước anh mới nhận ra trên bàn, ngay bên dưới đáy ly, có một mảnh giấy. Nét chữ mảnh, và vỏn vẹn một câu:
- Em không phải tên là Thảo.
( Tác giả : Đoàn Thị Cảnh . Nguồn : Damau )
+/ Nhiều quần áo . Có những thứ đã ở trong tủ 1 năm , và hôm vừa rồi mới là lần đầu thân mật với nó . Vợ chồng Siêu nhân mới mua tặng áo . Áo Boo . Thích ! Hehe .
+/ Học học học . Thi thi thi .
Thẻ SV đem quét lên quét xuống . Chờ trong vô vọng một tiếng Tít và màn hình hiện ra cái mẹt của mình . Chờ chờ chờ .
Rốt cuộc , vào phòng thi bằng giấy chứng nhận .
5' trước giờ thi . Mất điện . Thi trắc nghiệm ở phòng máy mà mất điện thì vui hết chỗ nói .
Hoãn thi .
+/ Hôm nay bê tha ở nhà công chúa Pink . Chói lọi chói lọi một màu hồng man rợ . Man rợ từ cái nồi cơm điện màu hồng cho tới cái sọt rác .
Có bê tha mới biết , quanh ta là một rúm to to to len bị rối ! Gỡ hoài gỡ mãi tới khi gỡ không nổi nữa thì cầm kéo cắt đến phựt ( ít ra là còn có dụng cụ để cắt chứ không cứa qua cứa lại hay cho răng vào hành quyết ) và sau cắt thì rõ là tổn thất và mất mát . Cuộc sống thế đấy !
+/ Mình bị biến thành cây cầu cho mọi người qua lại từ khi nào ? Cầu cho Bư và Cáo . Cầu cho Bố và Cáo . Cầu cho Bố và Bư . Tiếc là Cầu không thể làm Cầu cho chính nó .
Ai cũng đòi hỏi mình phải hiểu họ , phải là sợi dây liên lạc . Ơ , thế ai hiểu cho mình nhỉ ? Hứ .
+/ Ng sex và Delicate
- Em không tin chị chưa có người yêu
- ( Chỉ biết cười ) . Thế thì sao cưng ?
- Chị phải thề cơ
- Không thích thề . ( sợ tai ương )
- Thế thì ... em tin chị vậy . Chị uy tín mà . Thế thì , nhất định chị phải yêu cậu em .
- Cậu em ? Sao lại thế ?
- Không , cậu em hơn chị ít tuổi thôi . Cậu em sinh năm 82 , đang làm kỹ sư bên Úc . Chị Tú , đi mà . Nhé ?
- ( chỉ cười )
- OK rồi nhé . Cậu em bảo không cần gì hết , chỉ cần biết nói chuyện với cậu em thôi .
- Hahaha , thế thì em đánh đố chị rồi . Như thế , vấn đề là bội số của dài lâu và phức tạp đấy , nàng ạ .
- Chị hứa rồi . Em không biết . Em tin chắc là chị biết cách nói chuyện .
...
Thế là , trên đời này có người chỉ có 1 yêu cầu nhỏ như Trái đất khi tìm bạn . Là : Biết nói chuyện
+/ Ai nói rằng con sẽ ôm cổ bố để mừng bố trúng lô đề ? Mad !
+/ Thân yêu chưa thấy về . Chẳng biết sao nữa ?

27.2.09

GIÓ LẺ

Tác giả : Nguyễn Ngọc Tư
(Tại sao người ta không nhìn thấy mình khi mình còn sống ?- Lời của một con ma say rượu)
Trận mưa ban trưa đã vẽ lên kính trước chiếc xe tải Landu một mùa gió lẻ. Lá me rơi tầm tã trên mặt kính. Cái gạt nước không làm sao khỏa sạch được những chiếc lá nhỏ mong manh. Người lái xe chồm người đu đưa bên cửa, gạt lá rơi theo tiếng chửi thề lóc cóc. Cái khăn úa màu dầu nhớt trên tay ông ta mở ra trước mắt em bức tranh chợ Cỏ giãy giụa trong buổi xế tàn ngày.
Hai dãy nhà bên đường chạy chưa ngút tầm mắt thì nín bặt vì quãng đồng bỏ hoang. Chợ chiều gì cũng héo, nắng sau mưa héo chiếu xiên trên rau củ héo, và những mảnh thịt cũng héo tái tê dưới tiếng vo ve no say của lũ ruồi. Những người đàn bà đang ngồi bên sạp hàng của mình ngáp ơi hời qua môi khô. Trong tiếng thở dài của chợ Cỏ, em không nghe được hơi nước bay lên.
Một người thanh niên khác trên chiếc xe tải đã chuyển những hũ dưa cải cuối cùng xuống chợ. Anh ta mở cửa xe, ùa vào em cái mùi chua khẳm, anh lay tay em, tới chợ Cỏ rồi, giùm ơn thức dậy, xuống xe.
Em lặng lẽ thò tay vào túi lấy ra thêm một ít tiền. Tim anh ta đập mạnh. Lần này không phải vì tiền, mà vì ngạc nhiên. Thực ra cô muốn đi đâu, anh ta hỏi. Em nhìn anh một chút rồi nhắm mắt, em cũng không biết mình đi đâu hay sau đây anh ta sẽ đi đâu. Em thích ngồi đây, trên cái nệm ghế dường như đã rách, đùi em chạm vào khung thép, một khối mùi hỗn độn chênh chao chung quanh, nhưng em thấy dễ chịu vì không buồn nôn.
Hôm qua từ Xuyên Mỹ tới thành phố, trên chiếc xe khách nhỏ và chật, em lại bị nôn, khi người lơ xe yêu cầu hành khách xuống một cái chợ xã hiu hắt, "bà con an tâm, tụi này chạy đi vá vỏ chút rồi quay lại đón". Những cọng mì từ miệng em tuôn ra, lộn trái dạ dày. Trong đám hành khách nhếch nhác bị bán rẻ dọc đường, có bà cụ kêu mèn đét ơi rồi xoa dầu vào thái dương em, bùi ngùi, "con nhỏ say xe thiệt tội", mùi cốt trầu từ hai túi áo bà ấm sực. Em thấy cổ họng mình không cong lên nữa.
*
Họ không còn nhớ màu của nắng, hay phía của mặt trời rơi, vào buổi chiều chiếc xe tải rời một cái quán ăn bên ngã ba đường đi chợ Cỏ. Chẳng biết được hôm đó có điềm báo nào không, nhện sa trước mặt, hay con chim nhỏ bay lạc vào cabin, hay họ đã làm vỡ một cái tách trong quán nhỏ… trước khoảnh khắc cô gái xuất hiện trước đầu xe, áo cũ nhàu, tóc xõa trên cái cổ mảnh khảnh trắng nhợt.
Cô đứng chắn ở đó, gã nóng nảy nhấn còi. Cô vẫy một tờ giấy bạc xanh. Tiền lung liêng cất tiếng, nó nói rằng con nhỏ này có tôi, và nó muốn đi cùng, trên chiếc xe tải cũ nát, chở những hũ dưa cải từ thành phố đi chợ Cỏ.
Hôm ấy gió lẻ bắt đầu ướm chân vào mùa. Khi mở cửa cho khách vào xe, gió vẽ một vệt lạnh lên gương mặt đen đúa của Dự. Cậu ta làu bàu, “lạnh thấy mẹ…”. Cậu ta lân la hỏi, em quen ai ở chợ Cỏ, nhưng cô gái đã ngủ rồi. Có thể cô không ngủ, nhưng cô nhắm mắt để khỏi trả lời, cái ba lô nhỏ màu lông chuột ghì chặt trong lòng. Gương mặt, bàn tay, và tất cả chi tiết trên người cô toát ra một vẻ câm lặng.
*
Có vài câu hỏi bình thường mà người ta hay dùng để minh họa cho trò ảo thuật, thí dụ như nhà em ở đâu, sao lại đi lang thang bụi đời như vầy? Bộ không còn người thân nào? Em bệnh gì mà người em xanh rờn vậy? Em muốn đi đâu? Ai chờ em ở đó? Em tên gì?
Những dấu hỏi bầu bĩnh trùm lên mũi dao, và người ta chỉ cảm nhận sự sắc nhọn của dao khi nó bắt đầu chạm vào da thịt.
*
Gã gọi cô là Á. Cái tên sinh ra từ vụ tai nạn nhỏ, gã đã lơ đãng dập cửa trong lúc hỏi cô tên gì, tay cô bị kẹt trong đó, và cô thét lên "Á !". Đầu ngón tay trỏ của cô bẹp dúm và chỉ năm phút sau, nó sưng phù. Cô gái không khóc, dù đau lả. Gã áy náy định xoa dầu, nhưng cô lắc đầu, cô ngậm ngón tay đau cho đến khi nó cũng ướt đầm đìa, tê dại.
Cô vẫn câm lặng. Mà cô thì đi với họ đã hai ngày, và cuộc đi này có lẽ còn dài. Cô cần có một cái tên, để lúc gọi ăn cơm, lên xe hay xuống xe. Nhưng sau vài ngày, gã thấy tên cô có gì không ổn, nghe như tiếng kêu thét đau đớn, như một nỗi bàng hoàng, và nó gợi nhớ cái lỗi bất cẩn của gã, trong khi vết thương đã gần như lành lặn. Chiều đó ăn cơm xong, gã bất ngờ gọi:
- Mỹ Ái, lên xe!
Quà tặng đầu tiên làm cô mỉm cười.
*
Em có nhiều tên, ở rẫy bắp trong Mai Lâm, người ta gọi em là Lạc, trên những nẻo đường em đã đi qua, trẻ con gọi Câm ơi còn người lớn hỏi, "Em Cưng, đi đâu anh chở?". Tối hôm kia, trong một nhà chờ xe buýt bên đường, tên em là Lam. Người thảng thốt Lam ơi là một thanh niên mềm nhừ vì say. Cả tiếng kêu cũng xiêu vẹo, rã rời. Trong cái chuỗi lắp bắp trên môi là nỗi nhớ. Xe đạp. Chuyến đi. Đèo Mụ Mị. Gác chân nhau ngủ trong sương. Em nghĩ anh ta đang nói nhảm, anh ta không nói về mình, nên thản nhiên lấy mắt buộc những sợi mưa mỏng và dai ngoài kia. Rượu đã thấm tới lưng, nên lưng cũng không giữ gã trai đang ngày càng cong khẳm.
- Bữa ở trên đèo, tụi nó có tới sáu thằng. Mình đâu có bỏ chạy, mình chỉ tìm người tới giúp.
Gần như anh ta không giữ được cái đầu mình nữa, nó sắp rụng khỏi cổ. Cả người anh ta ngấm nước mưa, rượu và nỗi buồn, tất cả đã ướt đẫm tới xương. Chúng pha loãng máu, và trái tim mệt mỏi kia phải đẩy đưa từng dòng trong vắt. Em quẩy túi lên vai, em sợ cái cách chảy trôi tuột, trơn lẫy của những dòng máu loãng.
Em bỏ đi, chân sau đạp chân trước xước cả giày. Cảm thấy từ gót chân này một cơn đau nhói chầm chậm dâng lên. Như em chính là người tên Lam.
Mỹ Ái dường như chỉ là cái tên bất chợt. Em thích vì với em, nó không có quá khứ, không có nỗi buồn.
*
Cô gái ở lại cabin, bắt đầu từ hôm nôn trong một quán ăn, khi Dự bả lả nắm một cánh tay chi chít sẹo ghẻ và đắm đuối bảo một cô phục vụ là đêm qua anh đã chiêm bao thấy em, và chập chờn cả đêm, ướt đẫm cả đêm, "Anh thấy nhớ em khủng khiếp...". Cô rơi đũa, cong người bỏ chạy ra sau quán rồi loay hoay lên xe, không xuống nữa. Cô dường như chọn cái khoảng không chưa đầy hai mét vuông đó làm nhà.
Dự hơi sửng sốt, "đại ca, con nhỏ đó không bình thường…". Gã tọng một đũa rau vào miệng, ngốn cả lời của chính mình, "nó không chịu được chú mầy nói dóc".
- Vậy mắc mớ gì nó ói? - Đi hỏi nó. - Đại ca giỡn, nó câm mà. - Thì thôi.
Bằng cách dựng chuyện tầm phào, đồn đoán và bịa đặt, mỗi ngày họ bỏ ra một vài ý nghĩ, nói một vài câu về cô. Điều đó làm gã hơi ngạc nhiên, cuối cùng thì gã và Dự cũng có mối quan tâm chung.
Gã mua chiếc Landu này năm năm trước, với giá bảy mươi ba triệu, số tiền của hai mươi mốt năm làm bốc vác trong một nhà máy nước đá, lơ xe, phụ xế, và ôm vôlăng ăn gửi nằm nhờ trên những con đường. Chủ cũ tặng kèm một phụ xế tóc dài phủ mắt, đen quắt vì nắng và vì ngại tắm, già trước tuổi, tên Dự. Gã không cần Dự, nhưng chiếc xe tải thì cần, cậu ta thuộc cái tiếng xùng xèng kia phát ra từ đâu và mùi khét đó sẽ buộc họ dừng lại bao lâu, để sửa. Nếu nửa đường chiếc xe bỗng nghẹn ngào và chết máy, Dự ngó quanh hoang mang, trời ơi chắc muỗi xé xác tui quá, gã phải hiểu là đêm nay sẽ ngủ ở đây.
Năm năm đi với nhau, gã vẫn coi Dự là một hạt cơm nguội rời. Gã không cần gia đình nên không bao giờ xây dựng một gia đình. Đôi lúc tắm chung cũng không thèm nhìn vào cơ thể nhau. Gã có cuộc sống riêng, giấc mơ riêng và người đàn bà của mình vào những tối.
Nhưng cô gái mang lên xe gã quá nhiều bí ẩn và bất thường. Cứ nhìn cô gái xanh mét sau trận nôn mà không nén lòng được cứ phải buộc miệng, "nhìn con nhỏ ma quái quá…".
*
Em luôn có cảm giác mình nôn ra máu. Cứ sau mỗi trận nôn, người em rã ra, kiệt sức, không nghe tiếng tiếng máu chảy, tim thì cứ co bóp khan. Em thấy mình rất gần bờ chết, chỉ cách một gót chân thôi, em sẽ rơi vào dòng nước đen ngòm, rồi thì chìm xuống, mãi mãi. Hôm gặp lại cha, từ trường quay của chương trình "Giã từ lưu lạc", cha đưa em ghé qua nhà bác sỹ Lanh. Ông lật đật khám soi với đầy đủ những xét nghiệm quan trọng. Ông hỏi em nôn gì khi nãy, cha cười héo hắt, nhắc lại một bãi nôn khoai lang chua ngoét trước mặt bao nhiêu khách mời. Ông bác sỹ cười, chắc là ăn nhiều khoai chướng bụng không tiêu hóa được. Mà, cũng có thể do quá căng thẳng, xúc động, thất lạc nhau bảy tám năm chớ đâu có ít. Rồi ông xoa đầu em, chú mà xúc động, là chú ngứa mũi, nhảy mũi liên tục.
Hôm đó dường như ông cũng xúc động, cha em nói cha vừa ký quyết định nào đó cho bệnh viện nào đó, gương mặt bác sỹ rạng ngời. Ông âu yếm dúi vào tay em đơn thuốc, "Chịu khó truyền đạm, cháu nó coi bộ suy nhược lắm. Anh nói nó đã từng ở đâu, trong Mai Lâm hả ? Trời, hồi đi thanh niên xung phong tôi có ở đó, rừng thiêng nước độc lắm. Tội nghiệp cháu nó…".
Cái đơn thuốc làm cha tươi tỉnh và nhẹ nhõm. Cha không biết đó chỉ là tờ giấy vô vọng, với những nét chữ đổ tháo vô vọng.
*
Gió lẻ làm gã phải quan tâm nhiều tới chỗ ngủ. Bây giờ không thể bạ đâu nằm đó, trên sạp hàng hay sàn xe. Không thể ngủ trong cơn đùa nghịch dẳng dai của những cơn gió bị xé nhỏ bởi một bàn tay vô hình. Và từ khi lìa nhau, gió dằn vặt con người bởi nỗi ly tan của chính nó. Những cơn buốt lạnh chợt tới, chợt đi, thảng thốt. Đắp một tấm mền cũng là một cuộc tranh đấu nhỏ, bởi không biết bao giờ gió sẽ tới, trong thời gian đó, người ướt đẫm mồ hôi. Sự đùa cợt không bao giờ mệt mỏi. Đến mức người ta mòn mỏi thiếp đi thì gió lại dựng họ dậy theo cái kiểu lướt thật chậm từ chân lên đầu, như có một linh hồn, một bóng ma vừa đi qua âu yếm.
Để trốn gió, gã nhận chở bất cứ loại hàng nào, với cái giá rẻ nhất đi tới những người đàn bà của mình ở những điểm đến quen thuộc. Bằng cách đó, từng mùa gió lẻ đã đi qua đời gã êm đềm. "Khỏi tốn tiền trọ…", Dự cười hinh hích, cậu ta nghĩ vậy. Dự xa xôi với gã bởi những điều như thế. Dự trẻ, và ngơ ngác giữa cuộc đời ngơ ngác.
Nên dù nằm trong căn phòng ấm sực, cậu ta vẫn trằn trọc với cái kiểu gió đêm nay, "con nhỏ câm đó sao không chịu vô nhà…". Sáng sau gặp lại, không biết cô gái có bị gió làm xanh đi chút nữa. Hai chân có thể sẽ không duỗi thẳng ra được, vì gió vào cabin và cô gái bị đông còng queo.
Rẫy bắp ở Mai Lâm đón gió lẻ bằng những luống cây nghiêng ngửa. Vài ngọn gió cô độc đã nghênh ngang đi qua rẫy tạo ra một cảnh tượng buồn cười, chỗ thẳng chỗ xiên, rối bời. Buổi sáng thức dậy, gió làm những cây bắp đã trổ cờ ngã rạp tạo một tầm nhìn thấu vô nhà ông Tám Nhơn Đạo. Em thấy ông đang gội tóc cho bà vợ tật nguyền của mình. Bà nằm trên một cái ghế dài, một tay ông đỡ cái đầu nặng trĩu của bà, tay kia làm dội nước, rót dầu gội, rồi thì bàn tay to bè đó cũng chìm mất trong đống bọt trắng xóa.
Buổi gió làm cho việc gội đầu diễn ra nhanh hơn. Ông Tám ẵm vợ vô nhà, họ mất hút sau cái cửa tối. Em chậm rãi xoay người về phía cây bằng lăng. Những chòm sao tím thắp trên cây đã bị gió lùa rụng đầy đất. Từ lưu lạc, bầy sao bắt đầu nhuốm màu lam lũ, tả tơi.
Con Cò từ trong nhà ông Tám băng xăng bái xái chạy ra, mớ lông trên mép còn dính chút mỡ cháy. Nó vừa đi vừa sủa sửng sốt, dù đã sủa suốt đêm qua, dưới ánh sáng ban mai, cảnh vật trên rẫy trở nên xa lạ. Nóc căn chòi em ở xù lên phơ phất, như tóc của một người vừa ngủ dậy.
Trong mớ âm thanh quen thuộc của lũ kiến chạm chân trên đường rời tổ, của muôn vạn cái lá dập xao xác, những giọt sương sẽ sàng rụng xuống, tu hú kêu vang trong bờ sậy, có lẫn tiếng cây đang ứa nhựa hàn gắn vết thương, nơi nụ hoa lìa.
*
Dự hay dậy sớm, lúc ngồi dậy với cái lưng đau ê ẩm, cậu tung cửa chạy ngay tới chiếc Landu xem cô gái có còn… sống. Dù cô đang ngủ cậu vẫn gọi cô dậy, xác nhận cô còn có thể mở mắt, Dự nhoẻn cười, nói một câu vô nghĩa, "hên dã man…".
Nhìn cô sống, Dự cảm giác mình cũng sống, với những tia hy vọng ngập ngụa trong lòng. Sự sống tồn tại trong mùa gió lẻ khắc nghiệt, ở nơi nào đó, chắc bà nội cậu cũng đang thức dậy, hé mắt ứ hự chào ngày mới. Trong cơn cao hứng, đôi lúc Dự đã đu lên vai gã, thân thiết như đứa em nghịch với anh trai. Gã cau có, gã không thích những va chạm này.
Vì Dự căm ghét những con đường. Những lúc dừng xe lại, chạy lại giở nón của một người hành khất để tìm khuôn mặt già nua quen thuộc, Dự nguyền rủa con đường đã mang bà nội cậu đi, bảy năm trước. Gã ngồi im lặng trên xe, nhìn cái lưng trĩu thất vọng của Dự, và nghĩ, lựa chọn yêu thương con người đồng nghĩa với việc mất mát những niềm vui. Đồng nghĩa với cái chết, sự lìa bỏ, sự phản trắc, tan vỡ…
Gã thì yêu thương say đắm những con đường. Chúng luôn tồn tại, sinh sôi tươi mới. Một con đường không có cái chết. Một con đường luôn biết chờ đợi.
*
Em thích nhìn gương mặt người chủ xe sau buổi cà phê sáng. Môi ông ngậm một điếu thuốc lơ đãng, lên ngồi sau tay lái và im lặng một thoáng, trước khi vào cuộc hành trình. Khói thuốc cùng những giọt cafe còn đọng trên bộ râu tua tủa làm vẻ mặt của ông lung linh. Sau đó thì khuôn mặt chỉ còn một sự trầm mặc quánh lại, và trên người ông chỉ còn nhịp điệu của nỗi buồn.
Một con người buồn bã.
Mỗi lần qua một khúc quanh, hay khi phải phóng tầm mắt xa về phía trước, em nhận ra nhịp tim của ông giống hệt em, máu chảy về đó rất ơ hờ, lãnh đạm, tựa như không máu cũng chẳng sao, tim vẫn lay đúng nhịp. Không có gì sau ngã rẽ này hay phía trước kia, chờ đợi.
Người còn lại ngồi cạnh em thì ngược lại, hơi thở của anh ta luôn rộn ràng. Anh háo hức chăm chút từng khoảnh khắc, từng biến đổi cảnh sắc trên từng đoạn đường mà chiếc Landu cũ kỹ đi qua.
*
Cô gái không còn tiền, buổi chiều mua cho cô hộp cơm, gã nghĩ tới chuyện để cô xuống chợ Mỹ Đức, nơi chút nữa xe dừng lại giao những bó lác trói cua. Tới chợ thì trời tối, chủ hàng bảo chờ sớm mai sẽ thanh toán tiền công. Gã lặng lẽ quẳng đôi giày cô gái xuống xe, tiếp theo là túi xách và sau cùng là cô gái, bờ vai u nhã lọt thỏm trong bàn tay gân guốc, chai sạn. Dự nhìn thấy hơi có chút bất nhẫn, "tội nghiệp con nhỏ…".
Cô gái như biết trước kết cuộc này, nên dạt đi nằm bên thềm chợ. Cô co lại trong gió lẻ, vẫn cái vẻ nín nhịn câm lặng nhưng vì chợ rộng quá nên ngó nhỏ nhoi, tha thủi. Gã cố không nhìn về đó dù Dự cứ liên tục chắc lưỡi hít hà. Chuyển hết hàng thì gần nửa đêm, Dự nói, "làm một giấc tại chỗ, lấy được tiền là dọt luôn, khỏi mất công kiếm chỗ ngủ, đại ca…". Cậu ta muốn nấn ná thêm, biết đâu ông chủ sẽ nghĩ lại, vớt cô gái theo cùng.
Khoanh tròn trên một sạp hàng tạp hóa, Dự thiếp đi trong hy vọng mong manh. Gã ngồi quanh đó, hút thuốc đến mòn mỏi. Mới thiu thỉu, vẫn nghe gió lẻ rờn trên mặt thì cô gái hét lên, nghe như một cái tách rơi vỡ xuống nền nhà:
- Lửa!
Gã và Dự tốc chạy qua cánh cửa khói quặn đen ngòm. Dự không quên kéo cô gái theo. Đi khỏi con đường hẹp bên hông chợ, một đám cháy đã nhói lên trong kính chiếu hậu. Đêm ngưng đọng trên đường về. Gã thấy mộng mị, tiếng thét của cô gái, đám cháy… Những tàn thuốc của mình đã gây tai họa, gã giấu ý nghĩ đó vào lòng.
Sáng hôm sau, tivi nói rằng chợ Mỹ Đức cháy rụm, chỉ còn cái khung bê tông ám khói, hàng tỷ đồng hóa thành tro bụi, họ đang tìm nguyên nhân. Gã gần như úp mặt vào tô hủ tiếu, cắm cúi ăn. Dự hớn hở thấy mình thoát chết, cứ chống đũa thắc mắc:
- Ủa, tưởng đâu con nhỏ câm thiệt. Tự dưng phát lên nói là sao, trời?!
Người có thể trả lời thì ngồi ngoài xe. Gã ngờ ngợ, không biết số phận đã làm nên đám cháy đó hay chính cô gái muốn vậy. Giờ bỏ cô lại, biết đâu cô sẽ kể cho ai đó nghe vụ cháy ở chợ Mỹ Đức. Cô có câm đâu.
*
Hồi sáu tuổi, có lần em lén lấy dao cạo râu của cha để tỉa lông cho con chó Lu Lu, không ngờ vì chuyện đó mà cha mẹ cãi nhau, cha chỉ vào em, hỏi mẹ, từng từ khít như máu rỉ qua kẽ răng, "cô lấy thằng nào mà đẻ ra cái thứ này?". Mẹ em không trả lời, lẳng lặng vào phòng, khóa cửa trong. Ba giờ sau cha tìm thấy mẹ em treo mình đung đưa trên xà nhà. Lưỡi trả lại cho cuộc đời, bởi người không chấp nhận sự vô dụng của nó, nói mà chẳng người nghe.
Em đứng nhìn mẹ, đái dầm vì sợ. Bà Chín ở bên cạnh bịt mắt em, tay bà khô quéo không khép chặt được, trước khi vào phòng thay quần áo, em vẫn thấy gương mặt bị biến dạng của mẹ. Khi em quay lại với cái áo đầm mới màu vàng chanh, bà Chín bắt đầu khóc hức lên, chua xót, "trời đất ơi, kiếp người sao mau như nấu gói mì tôm vậy…?".
Suốt hai ngày lễ tang của người đàn bà tuyệt vọng vì phát hiện mình bị ung thư dạ dày, như cha em buồn bã kể, em ngồi dựa vách chỗ đặt quan tài của mẹ, lặng thinh đốt giấy vàng mã, từ tay em lửa nối vào lửa, không bao giờ tắt. Mặt em, tay em nóng rực như sắp tươm máu ra. Cuối ngày, bỗng bà Chín níu cha em, hớt hải:
- Sao mấy ngày nay con nhỏ không nói năng gì?
Cha quay lại nhìn em, thoáng nhẹ nhõm. Sự câm lặng cần thiết cho những bí mật.
Câu hỏi đầu tiên mà Dự chuẩn bị sẵn, rất đơn giản, "nhà cửa ở đâu mà đi bụi, hả em cưng?" nhưng cô gái không trả lời. Cô vẫn không có vẻ gì muốn nói. Giống như tiếng thét ở Mỹ Đức chỉ là một giấc mơ.
Gã nghe trong cái im lìm của cô là sự nhẹ nhõm của chính mình. Gã không bao giờ hỏi ai một câu tương tự, bởi người ta sau khi trả lời luôn muốn hỏi lại, "còn anh ?". Gã chưa bao giờ trả lời, kể cả với những người đàn bà gã ôm trong lòng. Đó là câu trả lời mặn sẵn, làm rộp bỏng môi, như nước biển.
*
Từ Thổ Sầu qua thành phố, tránh kẹt xe, nên ông Buồn (là em tự gọi vậy) đã lái chiếc Landu đi tắt qua những con đường ven đô. Em sực nhớ em vừa ngang qua nhà. Cổng cao và nhiều hoa giấy đỏ. Nó đã tinh tươm trước khi em trở về. Và sau đó thì vương vãi những bãi nôn.
Nhiều người mang quà tới chúc mừng cha và em, họ nói một cuộc sum họp được truyền hình trực tiếp trên ti vi làm họ khóc muốn chết. Họ không ngờ cuộc đời của chủ tịch lại nhiều bi kịch vậy, vợ đầu chết, con gái thất lạc gần mười năm trời. Phải có ý chí cao lắm, nghị lực khủng khiếp lắm mới vượt qua những nỗi đau riêng mà lo cho chuyện chung. Em nghe những điều đó với một chút ngẩn ngơ, rồi nôn, muốn chạy tới phòng vệ sinh nhưng chẳng nhớ nó nằm đâu, nên thức ăn lộn ngược ra thảm. Ngày khách nhiều em nôn nhiều lần. Chị Băng nói vậy thì cứ nằm trong phòng.
Thật ra khách cũng không cần gặp em, khách chỉ muốn chị Băng nhớ là họ đã đến, và con chó xù nhồi bông ngoại nhập kia, chiếc vòng bạch kim kia, cái túi xách đắt tiền kia… là của họ tặng cho em. Chị Băng nhớ thì chị sẽ nói lại, khi cha về. Công việc của chị Băng, là làm cha em nhớ tới họ.
Chị còn chuyện quan trọng mỗi buổi sáng, là đi mua thức ăn cho bầy cá sấu trong chuồng. Chị chạy xe máy đằng sau máng hai cái giỏ lặc lè. Người ở chợ quen với cảnh tượng này, ai cũng khen vợ lãnh đạo mà chịu cực giỏi, chớ vợ mấy ông kia, giờ này còn ngoài sân quần vợt. Chị Băng cười, ngồi không trông vào đồng lương của ổng, thì chịu không nổi.
Chuyện chị Băng nuôi cá sấu xây biệt thự ai cũng biết. Ai cũng nuôi cá sấu mà rồi không ai xây biệt thự.
*
Dự sốt cao, nằm lại một chỗ quen ở Lạc Mai, chuyến hàng đi Đập Đá chiếc Landu trống chỗ. Gã không thấy chênh chao mảy may nào. Gã quen với sự tạm bợ và vô định, ngày mai thức dậy, có thể Dự đã vĩnh viễn về nhà, vì đã tìm được bà nội dù còn sống hay chỉ nắm xương tàn rã. Cô gái đang ngồi đây cũng vậy, cô lên xe bằng cái ý nghĩ bất chợt nào rồi một ngày, vì ý nghĩ bất chợt, cô sẽ lặng lẽ xuống xe. Chỉ còn gã và những con đường. Gã không muốn từ bỏ cái cuộc sống này, khước từ mọi cơ hội trở lại như người bình thường, cạo râu cắt tóc, ăn mặc thẳng thớm chỉnh tề, sáng sớm thức dậy uống càphê, ăn phở rồi chạy xe tới sở làm, yêu một người và lấy làm vợ.
Xe đi một qua một cánh rừng cao su đang thay lá thì mưa nhỏ. Mắt ngó qua cửa kính nhòe nước, cô gái thốt nhiên nói "Biết nước khóc chừng nào rồi?".
Giọng cô đầy ngượng nghịu. Gã buồn cười, chắc đã lâu lắm ngôn ngữ rời bỏ cô gái này, và khi chúng ùa trở lại trong một cơn lốc, cô phải xóc xổ khối hỗn độn đó, nhặt lấy từng từ chắp nối thành câu.
- Để đào cho.
Buổi cơm tối, sau khi chuyển hàng xuống xe xong, cô giành bới cơm. Gã suýt mắc xương vì chữ "đào". Gió thổi ngoài kia cồn cào, vẫn là cái thứ gió xé nhỏ đau đớn buốt lạnh. Gã lái xe chậm rãi tìm nhà trọ, cái thị trấn nhỏ bắt đầu đóng cửa tắt đèn.
*
Nằm nhìn trăng trôi trong rẫy bắp, em từng nghĩ, khi mình nói trở lại, câu đầu tiên là gì ?
- Mầy đừng liếm chân tao, nhột lắm!
Câu đó em sẽ nói với con Cò. Nó hay làm em tỉnh giấc bởi sự hí hửng vô chừng, chỉ là bóng trăng, lá rơi hay mùi một con chó cái xa xa… Cái lưỡi ướt lạnh của nó bắt đầu lượn lờ lên gót chân rồi lên đến bắp chân, đầu gối em. Những cơn rùng mình từ đó chạy lên đỉnh đầu, làm nên một vòng sóng ran cả người.
Em ghét cảm giác đó, nên em định nói với con chó. Nhưng rồi em lại nói câu khác :
- Đi.
Đó là buổi sáng em bỏ lại rẫy bắp sau lưng, đi dọc theo con đường chập chờn lau lách, xập xòe bướm bay. Em tới một ngã ba, gặp một cái quán nước thưa người. Con Cò lẽo đẽo đi theo, thật ra cái từ "đi" nó chẳng hiểu, vì em chưa từng nói, nhưng nó biết có cơn đau nào đó đang xảy ra, bằng những tia máu vằn trong mắt, bằng chuyển động của ngón tay, của cái hất mặt, nhíu mày, của bước chân oằn trĩu…
*
Ba ngày nằm bệnh với Dự như bằng ba năm. Nằm trong chăn, cậu hình dung chiếc xe tải sáng nay đi ngang qua một ngôi miếu nhỏ, bà nội Dự đang nằm ngủ trong đó, nón lá rách úp mặt, đầu gối trên chiếc bị bàng cũng rách. Bảy năm lưu lạc rách nát thân già. Mình đã bỏ qua cơ hội tìm thấy bà, ý nghĩ đó làm Dự không yên. Ngày mai, cũng qua cung đường đó, cái miếu đó, nhưng bà nội không còn ở đó nữa. Những con đường đã cuốn bà trôi cùng chúng.
Dự cầm tấm hình của bà nội, nó đã quăn queo, nhàu nát. Hàng trăm bàn tay đã cầm nó lên, khi trả lại kèm theo những cái lắc đầu. Ngày Dự đi khỏi nhà với cái đầu cạo trọc bóng, như một lời thề, "không tìm được bà nội con không về…". Mẹ Dự sụt sùi, "thiên hạ mênh mông, biết đâu mà kiếm hả con ?".
Dự không tin thiên hạ lại rộng hơn cái thành phố này. Lòng cậu bị một cái dằm thép cháy đỏ trong đó, cháy từ buổi trưa Dự bỏ cuộc bi-a với bạn để chạy về nhà coi chừng bà.
- Bà nội báo hại con quá. Phải bà chết sớm con khỏe.
Dự ngờ rằng, vì câu nói trong lúc dằn dỗi này mà bà nội bỏ đi. Dự phải tìm bà, quỳ dưới chân xin lỗi… Bây giờ thì cũng chẳng nhớ sẽ nói với bà những gì, khi gặp lại. Tất cả đã mỏi mê, Dự tìm bà chỉ vì muốn tìm, vậy thôi.
Nằm quẩn quanh hết giường tới võng, không lái xe, không khuân vác, không lau dọn, trêu ghẹo cô giúp việc của chủ nhà rồi cũng chán, Dự thấy rã rời, ừa thì mai đây tìm được bà nội, rồi sau đó? "Sau đó" là một cái một khoảng trong veo vô tận.
Buổi chiều chiếc Landu quay lại, Dự nhảy ào ra cửa, mừng húm, cảm giác xa lâu lắm rồi. Một phần là do cô gái, khi trở lại, cô đã biết ngọng ngịu nói vài câu ngớ ngẩn, "có mắc rảnh không?" hay "nút áo rời kìa". Dự mắc cười quên cơn ớn lạnh, lúc lau dọn chỗ sàn xe thủng, cô gái ngậm ngùi "chỗ đây rách rồi…".
*
Em chẳng nhớ là mình đã nói câu gì khiến ông Buồn mỉm cười, hôm đó. Bắt đầu từ miệng, nụ cười bùng ra, gương mặt ông rạng rỡ, như có một hòn than sẽ sàng cháy, làm rựng hồng lên những tro lạnh chung quanh.
Lúc lời bật ra khỏi môi, thì em đang nghĩ tới tổ chim sâu trên nóc căn chòi cuối rẫy. Chẳng biết chuyện ở đâu mà chúng nói ríu ran cả ngày. Em hình dung vầy, con chim chồng nói :
- Anh vừa gặp một con voi chết trong rừng.
Vợ nó hỏi ngay, trời sao con voi đó chết? Vậy là giả thuyết được đặt ra, và câu chuyện trở nên bất tận, hết con voi thì tới đàn kiến đang bò đi, chắc là bò tới chỗ con voi, rồi nước suối chảy vòng qua xác con voi, rồi cái tán cây phía trên con voi. Hôm sau thì tới chuyện một cành hoa rụng. Câu chuyện trong trẻo và vui nhộn không bao giờ chấm dứt, bất chấp mưa, nắng, bất chấp gió lẻ gió bầy. Em luôn nghĩ, không biết trên thế gian này có con chim nào tìm tới cái chết vì tiếng hót của con chim khác ? Có con chó nào bỗng dưng đâm đầu vào đá vì tiếng sủa của con chó khác? Có con bò nào nhảy xuống sông tự chìm chỉ vì tiếng kêu của con bò khác ?
Tiếng nói của con vật không dùng để làm tổn thương nhau, em nghĩ. Cho đến bây giờ em cũng nghĩ vậy. Nên khi em nói theo kiểu - của - chim, đã làm hai người họ phì cười. Có lần em đã học nói giống con người, chỉ vài từ ngắn ngủi thôi, nhưng em mướt mồ hôi, kiệt sức :
- Sao ông buồn vậy?
Và người được hỏi cau mặt, phun một bãi nước bọt. Có vẻ ông không thích tiếng người.
*
Những lúc cạo râu, gã mới nhìn lại mình. Trong gương là khuôn mặt của cha gã, đôi mắt sâu của mẹ và đôi mày rậm ngang tàng của anh trai. Tất cả họ đã chìm, hoặc trong biển sâu hoặc trong lòng nước Mỹ.
Gã còn lại những con đường. Gã đi làm lơ xe khi chỉ mới mười ba tuổi. Với vài ba bộ đồ, gã đi khắp, đi theo kiểu con vắt trong vườn chuối mùa mưa, chỉ cần một điểm tựa, con vắt búng mình đến một nơi và từ nơi đó, nó lại vươn ra đi tiếp. Chỉ khác là vắt cần máu để sống, gã chỉ cần được đi.
Dự gặp gã lần đầu thì gọi đại ca, bởi "“em nhìn là biết dân giang hồ liền…". Với vẻ lì lợm cố hữu, vong gia thất thổ, lấy xe làm nhà, lấy những con đường làm bầu bạn, lâu lâu ghé qua ngấu nghiến đàn bà, lơ đảng những món tiền kiếm được... gã giang hồ hơn mọi giang hồ.
Giờ dù quanh quẩn đi lại ở mấy chợ quen, nhưng gã vẫn không lấy làm buồn. Những con đường đó vẫn biến đổi mỗi ngày: cô chủ quán đã cắt tóc cao, cây me tây thay lá, thêm cái tủ thuốc lá được đặt bên vỉa hè, những thùng rác được thay mới, một bảng hiệu đã sơn lại, vài cái đèn đường tắt, panô giăng ngang đầu "Giải quần vợt mở rộng" hôm nay đã bị mưa làm rơi mất chữ t…
Chẳng bao giờ những con đường lại biến mất sau giấc ngủ quên trên gác xép, như cả nhà biến mất, khi gã lên tám tuổi.
Còn tiếp...
Nguyễn Ngọc Tư (Trích Gió lẻ và chín câu chuyện khác, NXB Trẻ, 2008)