Over and over I whisper your name. Over and over I kiss you again
TT&NT

31.7.15

So, you think you can tell Heaven from Hell



Ngầm của Haruki Murakami được xếp vào thể loại phi hư cấu, tác phẩm báo chí xoay quanh cuộc tấn công bằng vũ khí sinh học sarin {sarin là hơi độc thần kinh do các nhà khoa học Đức chế ra những năm 1930 trong kế hoạch chuẩn bị Thế chiến II của Adolf Hitler. Những năm 1980 Iraq đã dùng nó trong chiến tranh chống Iran và chống người Kurd, sarin độc gấp 26 lần xyanua, một giọt sarin cỡ đầu kim cũng đủ giết chết một người} của giáo phái Aum nhắm vào thường dân, hành khách của hệ thống điện ngầm Tokyo tháng 3/1995 làm 12 người tử vong, hàng ngàn người bị thương, thương tổn vĩnh viễn. Nhưng nếu đọc trọn vẹn thì nó mang nhiều tính văn chương dù Murakami dùng chính năng lực tiểu thuyết gia của mình tiến hành loạt phỏng vấn cả nạn nhân, cả các thành viên của giáo phái Aum, như hai chiến tuyến trái ngược nhau với một cái nhìn khách quan nhất để đem lại cho người đọc, và chính cả bản thân Murakami nữa (tại thời điểm này ông vừa quay lại Nhật Bản sau một thời gian dài sống ở nước ngoài) chân dung về "cái ở tầng ngầm, tầng sâu" trong xã hội thịnh vượng Nhật Bản, cũng như đằng sau cuộc sống bình lặng của từng cá nhân đất nước này, một đất nước vốn được ca ngợi và biết đến với sự phát triển tột bậc văn minh và được xem như một cường quốc đi trước thời đại
Đúng như Murakami có thú nhận trong tác phẩm này, vào mỗi cuộc phỏng vấn, ông đều cố gắng khai thác lai lịch, tung tích của người được phỏng vấn, ông tự nhận đây là căn bệnh của người viết tiểu thuyết, luôn muốn có một "bộ mặt" cụ thể của người được nói đến, không quan tâm tới bức tranh toàn cục mà muốn chú trọng vào tính chất người cụ thể, không thể bị thu nhỏ của mỗi cá nhân.
Phần 1 của Ngầm là tập hợp 34 cuộc phỏng vấn gồm cả nhân viên nhà ga, hành khách, thân nhân của những nạn nhân đã tử vong trong thảm kịch và cả bác sĩ, tiến sĩ góp phần dọn dẹp hậu quả thảm kịch sarin gây ra.
Khi nhìn lại thảm kịch này phần lớn những người được phỏng vấn vẫn còn chịu hậu quả của việc nhiễm độc sarin: tâm lý sợ hãi (đi bộ cũng cảm thấy bất an, không dám đi lộ trình cũ, không thích bị hỏi về di chứng của thảm kịch sarin), trí nhớ giảm, đau đầu, nhanh bị mệt, thị lực kém đi nhiều, và tất nhiên, sung sướng vì mình đã sống nhưng cũng cảm thấy đáng tiếc cho những nạn nhân khác không qua khỏi được...nhưng mỗi người lại có một câu chuyện và suy nghĩ hoàn toàn cá nhân, ngay cả việc họ nghĩ sao về những kẻ phải chịu trách nhiệm cho thảm kịch này. Trong các cuộc phỏng vấn ở phần này, dù là thảm kịch nhưng có thể thấy sức sống bền bỉ và lạc quan của người Nhật, họ tin vào một thứ tâm linh vũ trụ giống như xưa nay chưa được bàn tay số mệnh ban cho điều gì, cũng không trừng phạt gì, chỉ là không gì hết, sống một cuộc đời tẻ nhạt và bỗng dưng có một đều gì như thế này đã xảy ra: "chỉ vì xe bus đi sớm 2 phút nên tôi đã bắt chuyến tàu khác", "hôm đó tôi đã lên toa 1 đầu tàu thay vì toa 2 như mọi khi, nếu giống mọi khi thì thuận chiều gió, có thể tôi đã nhiễm độc nhiều hơn" hay cuộc phỏng vấn ở trang 70 và 78 như là một sự thay đổi lớn trong cách sống khi một phụ nữ nhiễm độc sarin đã không còn cãi nhau với chồng nữa, và cô coi đây như một lực tác động tâm lý "giống như biết đâu đây sẽ là lần cuối ta ở bên nhau" còn một người đàn ông khác thì ngay sau thảm kịch kia đã quyết định ly hôn vì vốn dĩ không hạnh phúc từ lâu rồi, việc trúng độc sarin chỉ như là giọt nước tràn ly, con lừa ngã quỵ chỉ vì thêm một tấm áo vắt lên lưng.
Sự việc tính đến giờ đã lùi xa hơn 20 năm nên khi đọc các nạn nhân tường thuật lại thảm kịch này diễn ra ở hệ thống điện ngầm Tokyo người đọc sẽ không tránh khỏi sửng sốt khi hệ thống ứng cứu thảm họa ở Nhật Bản lại đáng thất vọng như thế: xe cứu thương đợi hàng giờ đồng hồ, bệnh viện, trung tâm y tế ngơ ngác không có phác đồ điều trị hay xử lý tạm thời, và tôi tin rằng truyền thông lúc nào cũng vậy, chỉ nhằm làm hoang mang thêm, sự hoang mang vượt trên mục đích mang đến hay phổ cập thông tin tức thời, truyền hình chiếu lên những cái quá ư hạn hẹp và khi đưa tới công chúng thì nó đem đến một cái nhìn không toàn cảnh và thiên lệch (Truyền hình mới đáng sợ làm sao). Đúng như tiến sĩ Nobuo Yanagisawa (hiệu trưởng trường Đại học Y, Tokyo), một người được phỏng vấn trong phần này có nhận xét:”Ở Nhật không có hệ thống xử lý thảm họa lớn một cách tức thời và hiệu quả”. Thảm kịch sarin 20 năm trước ở Nhật Bản đã đánh vào suy nghĩ của rất nhiều người, không chỉ người Nhật, rằng Nhật Bản là một nơi tuyệt đối an toàn, rất nhiều người được phỏng vấn đã đặt ra câu hỏi, cảnh sát Nhật Bản tại sao không đi sâu vào vụ Matsumoto hơn nữa, một vụ rải hơi độc sarin diễn ra trước đó không lâu? Hay ngay sau vụ Matsumoto thì các bệnh viện đáng ra phải được chuẩn bị cho tình huống nhiễm độc sarin là như thế nào? Nếu mọi công tác được tiến hành tốt hơn thì chắc chắn các bệnh viện và trung tâm y tế đã không rơi vào tình trạng trang bị nghèo nàn đến độ thành ra trò cười (bệnh nhân đứng chờ hàng giờ, ngay cả khi đã đi vào trạng thái hôn mê…), hay có thể đã giảm thiểu thiệt hại về người đáng kể nếu ngay khi phát hiện sự việc lạ khiến nhiều người cảm thấy ốm, mệt thậm chí ngất khi ngửi phải mùi lạ trên toa tàu mà tuyến tàu được ngừng hoạt động luôn, tiến hành sơ tán khỏi tầng hầm….
Chân dung người Nhật quá ư lặng lẽ, co cụm, cô đơn và xa cách. Như Kiyoka Izumi 26 tuổi đi tuyến Chiyoda, được phỏng vấn có nói, tuyến điện ngầm của cô “trước bộ thương mại và công nghiệp, có những người sùi bọt mép. Một nửa con đường rải nhựa đó là địa ngục tuyệt đối. Nhưng ở nửa bên kia người ta vẫn rảo bộ đi làm như thường lệ. Đang săn sóc một ai đó, tôi nhìn lên thì thấy người qua đường liếc về phía chúng tôi với vẻ như hỏi:”Ở đó xảy ra chuyện quỷ gì thế kia?” nhưng không ai lại gần. Tựa hồ chúng tôi là một thế giới tách biệt. Không ai dừng bước. Tất cả họ đều nghĩ: “Chẳng dính dáng gì đến ta”
Hay như ông Masanori Okuyama 42 tuổi đi tuyến Hibiya “khi tôi ra ngoài, ở đằng trước ga Kodemmacho, nhất định là cả một khối phố kia đang trong trạng thái không bình thường nhưng xung quanh chúng tôi, thế giới vẫn tiếp diễn như xưa nay vậy. Xe cộ vẫn chạy qua bình thường”
Hay như một người được phỏng vấn có nói, tất cả đều ngửi thấy mùi rất lạ nhưng mọi người quá lặng lẽ, ai cũng lặng lẽ coi đó là việc không phải của mình
Tất nhiên chân dung ấy là số đông nhưng không phải tất cả, vẫn có những người vì giúp người mà cũng thành nạn nhân nhiễm độc, những nhân viên nhà ga tận tụy không tránh khỏi việc nhiễm độc quá nặng mà tử vong…
Trong phần này tôi đặc biệt cảm động với 4 cuộc phỏng vấn: Tatsuo Akashi (37 tuổi) anh trai của người bị thương nặng Shizuko Akashi; Shizuko Akashi (thời điểm được phỏng vấn cô bắt đầu có thể cử động được một chút rất ít, ngồi xe lăn di chuyển quanh phòng bệnh và có thể nói được ít và không rõ ràng) và cuộc phỏng vấn Yoshiko Wada, vợ góa của anh Eiji Wada; Kichiro Wada và Sanae Wada, bố mẹ của Eiji Wada đã chết. Dường như cả 4 cuộc phỏng vấn này khiến không chỉ Murakami mà chính tôi cũng quay trở lại câu hỏi Lớn: Sống có nghĩa là gì? Sống là như thế nào? Liệu ta có sức mạnh ý chí để tiếp tục sống ngoan cường như cô gái Shizuko Akashi kia không? Tình cảm của ta, bàn tay ta có đủ ấm để tiếp sức mạnh cho một ai đó? Ta đã yêu ai đó đủ chưa? Khi không còn hiện hữu thì dần dần mọi thứ sẽ phai nhạt đi, đúng không?
Phần 2 của Ngầm chủ yếu dành cho các cuộc phỏng vấn những người đã từng nhập giáo phái Aum, hay vẫn đang ở trong giáo phái Aum hoặc đã trở về một cuộc sống thế tục bình thường. Tôi đặc biệt thích phần này vì tìm thấy rất nhiều hình ảnh của mình trong đó. Bản thân tôi rất dễ bị thu hút bởi các chủ đề tôn giáo, đức tin, từng có lúc tôi cảm thấy mình đặc biệt bị thu hút bởi thuyết mạt thế nên gần như tôi có thể hiểu phần nào đó về những con người trong cuộc phỏng vấn này. Phần lớn những kẻ nhận nhiệm vụ thả sarin đều là những cá nhân có thể xem như kiệt xuất trong xã hội, thông qua hình ảnh những cá nhân được phỏng vấn, ta có cái nhìn khái quát những con người này, tiến trình gia nhập giáo phái, chân dung Thủ Lĩnh Shoko Asahara, truy cầu tôn giáo của họ, quan điểm của họ về việc Aum đánh hơi độc hệ thống tàu điện ngầm Tokyo…
Phần lớn họ là những cá nhân yếu đuối, họ đối diện với nỗi cô độc khi làm một cá nhân biệt lập trong thế giới với trạng thái nhiều suy tư, không tìm thấy sự thỏa mãn khi sống giữa xã hội nên họ cho rằng khi mình xuất gia, gia nhập giáo phái Aum, có thủ lĩnh, họ giao phó cái tôi của mình cho giáo phái nhằm tìm kiếm một điều gì đó bên trong họ mà chính bản thân họ chỉ cảm thấy mà không chỉ đích danh được nó là điều gì, cái gì. Họ có nhiều bạn bè hoặc không, nhưng phần lớn đều thích nghi với xã hội bằng một cái tôi khác, vẫn là cuộc sống học tập đi làm và quây quần bên gia đình nhưng khi về đến phòng riêng hoặc khi ở một mình họ bị một thôi thúc truy vấn về thế giới, về những điều cấm kỵ tự hỏi ta đích thực là ai. Tức là tôi tin rằng một bộ phận người quanh tôi bị mắc mứu vào những điều này nhiều hơn những người khác và loay hoay với mọi suy tư tôn giáo hay những nỗi đau, bất an mà họ cứ cố mang theo không buông, cuộc đời đầy những đau khổ và các mâu thuẫn trong thế giới thực tại trở nên khó chịu đựng. Điểm hấp dẫn của giáo phái Aum nằm ở chính những thất vọng của con người với hiện thực, với sự bất an, lủng củng của khái niệm “gia đình”, cảm giác mang tính khải huyền về “tận thế”, những cảm giác chung của con người về tương lai
Bạn chưa từng hiến một phần bản thân mình cho một ai đó hay điều gì đó để đổi lấy một thứ mà bạn nghĩ cần thiết với mình, giúp bạn đương đầu được với cái yếu nhược trong con người mình. Bạn chưa từng giao phó mình cho một tổ chức, đoàn thể trật tự nào to lớn hơn chính cá nhân bạn. Và khi tổ chức đoàn thể ấy yêu cầu một nhiệm vụ thì bạn liệu có biết được nó là việc “loạn trí” “điên rồ” không hay bạn vẫn nghĩ nó nhằm làm tốt đẹp thế giới này như mộng tưởng ban đầu của bạn và bạn thành kẻ sẵn sàng chết vì một nguyên lý, chân lý nào đó bạn tin, một chân lý mang màu sắc chủ nghĩa hiện thực ấn tượng mạnh: trước khi cải tạo thế giới, anh phải cải tạo chính cơ thể mình
Phần lớn những người còn theo Aum hay đã bỏ giáo phái và công khai phê phán Aum khi được hỏi đều không hối tiếc khi gia nhập Aum, với họ đấy là những ngày tháng không uổng phí vì “ở trong Aum họ tìm thấy mục đích trong sáng mà trong xã hội bình thường họ không cảm thấy. Dù cuối cùng nó có trở thành cái gì ghê tởm đi nữa thì ký ức đầm ấm, ngời ngời về sự bình yên được tìm thấy lúc ban đầu vẫn cứ còn lại trong lòng họ và không thứ gì khác có thể dễ dàng thay thế”.
Xét ở một góc độ nào đó, thảm kịch Aum này là những hình dung bị đè nén về tận thế, có thể xem nó như một loại virus được phát tán vào xã hội, chưa thể xóa bỏ hoặc chưa được hiểu thấu đáo. Nói như anh Misuo Arima (41 tuổi) một nạn nhân được phỏng vấn ở nửa đầu sách có nói: cảm thấy như mình đang xem một chương trình tivi “Từ khi chiến tranh kết thúc, kinh tế Nhật tăng trưởng nhanh đến bước chúng ta đã mất đi mọi cảm nhận về khủng hoảng và của cải vật chất là tất cả những gì có ý nghĩa. Ý nghĩ làm hại người là sai, dần đã biến mất. Trước đó, người ta đã nói nhiều đến điều này, tôi biết, nhưng phải đến vụ hơi độc này tôi mới thực sự thấm thía. Nếu ta nuôi dạy một đứa trẻ với cái não trạng ấy thì sẽ ra chuyện gì đây”
Và đặc biệt có một cái nhìn toàn cuộc khách quan như ông Toshiaki Toyoda 52 tuổi, một nhân viên nhà ga với 34 năm trong nghề có nói đến một thứ linh cảm: “Tôi biết xã hội đã đi đến bước sẽ sinh ra thứ gì đó như Aum. Ngày ngày tiếp xúc với hành khách, ông thấy cái mình nhìn thấy. Đó là vấn đề đạo đức. Ở nhà ga ông có một bức tranh rõ rêt về con người vào lúc tiêu cực nhất của họ, những mặt trái của họ. Chẳng hạn, chúng tôi lau quét nhà ga với một cái hót rác và bàn chải cọ, và rồi đúng lúc chúng tôi làm xong thì một ai đó lại lẳng đầu mẩu thuốc lá hay rác vào ngay chỗ chúng tôi vừa dọn sạch. Ở ngoài kia có quá nhiều người tự cho mình là đúng”
Đến một mức độ văn minh nào đó, con người sẽ đi vào trạng huống tự tiêu diệt nhau và xã hội văn minh ấy sẽ bị sụp đổ. Sau nó là utopian hay dystopian là điều nằm ngoài sự hiểu biết của con người, nhỉ
1, Tôi tin rằng việc tiến hành phỏng vấn và tập hợp chúng thành sách, những hiểu biết về thảm kịch sarin và giáo phái Aum là mảnh đất màu mỡ để Murakami viết 1Q84 và đặc biệt với mình là, mình lại có một cảm giác liên hệ giữa Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới với sự kiện của Ngầm dù Xứ sở được viết trước thời điểm thảm họa xảy ra đến 10 năm, trước Ngầm đến 12-13 năm, mình sẽ tìm cách lý giải sợi dây cảm giác của mình vào dịp nào đó mình thu xếp quay lại đọc toàn bộ Haruki Murakami
. Thông qua việc phỏng vấn này, từ cách nhìn và căn bệnh nghề nghiệp của người viết, rất nhiều hình tượng nhân vật đã được xây dựng, nó như việc bỗng dưng anh được nghe rất nhiều suy nghĩ, cảm nhận về cùng một sự việc nhưng đa màu sắc, đa chiều hướng
2, Tôi đọc Ngầm năm 2010 khi đang vừa học vừa làm, tiền ít mà sách thì muốn mua rất nhiều, đọc trong lúc nhà sách vắng khách và không mua nó. Mãi sau này có điều kiện hơn, thì không còn bản in đầu, con người nhiều khi bị những thứ rất ngớ ngẩn trẻ con ngăn cản làm một việc gì đó, nhỉ. Bẵng đi 5 năm, hôm vừa rồi được tặng quyển này thì mới lần hồi đọc lại. Đúng như bộ phim Elegy dựa trên tiểu thuyết The Dying Animal của Philip Roth có nói: cuốn sách đọc lại sau 10 năm có khác không? Thì Ngầm cũng vậy, 5 năm trước vẫn là một người luôn bị thu hút bởi chủ đề tôn giáo, tâm linh, đức tin…nhưng chưa thực sự dùng chính cảm nhận, đức tin của mình, nên lần đọc này cảm thấy rất khác biệt, như đã thay đổi nhãn quan, nhân sinh quan nhìn vào một sự việc vậy. Tôi vẫn cho rằng vì bất cứ lý do gì những người ở giáo phái Aum cũng không được phép làm việc thả hơi độc sarin, tấn công có hệ thống như vậy, việc phải chịu trách nhiệm, bị kết án là hoàn toàn không có gì phải bàn nhưng một mặt nào đấy, tới thời điểm này, tôi nghĩ rằng mọi vận hành của xã hội dù có là loạn trí, điên rồ thì đều có cái lý của nó, chỉ là ta có nhìn ra, có biết, có hiểu được cái lý đó không mà thôi
Tôi có đùa bạn tôi rằng, người như tôi rất dễ sa chân vào một giáo phái nào đấy vì bản thân tôi là một cá nhân yếu đuối luôn cảm thấy không thỏa mãn với cuộc sống thế tục, rồi nỗi bất an, thương cảm bi ai với chính con người, luôn có khao khát tiềm kiếm một thứ gì đó ẩn sâu trong tôi, một thứ mà tôi chỉ có thể cảm thấy nó có mà không thể nắm bắt được. Là thế đấy, rất nẫu colonthree emoticon


ps: sẽ quay lại sửa sau, té đây


27.7.15

hello darkness, my old friend


sự phù du của số phận như gió, không biết đến từ đâu và sẽ đi đến đâu, nó để lại những hình bóng với người này là quái ác, kẻ kia là phiêu bồng. Phải chấp nhận định mệnh như vết sẹo của lịch sử và thường có nguy cơ trùng khớp vào cuộc đời những con người tưởng chừng không bao giờ gặp nhau, với một thái độ, thế nào nhỉ, nhìn nhận đời mình như đọc một cuốn tiểu thuyết do kẻ khác viết ra

18.7.15

Đọc Diêm Liên Khoa (Yan Lianke)



Việc vừa đọc vừa lướt giống như tìm bắt sợi dây ý tưởng, còn cụ thể hóa nó thì phải đọc-lướt-hệ thống lại. Đến lần đọc Diêm Liên Khoa này mới phát hiện ra mình đọc đảo lộn trật tự quá trình sáng tác của tác giả, nó đóng vai trò đáng kể khi muốn tìm hiểu về một người viết. Tôi đã đi theo trình tự xuất bản ở VN: Người tình phu nhân sư trưởng - Phong nhã tụng - Kiên ngạnh như thủy (trình tự đúng phải là Kiên ngạnh như thủy - Người tình phu nhân sư trưởng - Phong nhã tụng) và tôi hiểu vì sao Người tình phu nhân sư trưởng lại được xuất bản trước nhất, có thể nó đánh vào một cốt truyện tiếp cận nhiều nhóm độc giả hơn hết, dù gì mối tình vụng trộm của một anh lính cần vụ trẻ tuổi với người vợ 32 tuổi của ông tư lệnh sư đoàn bị bất lực, liệt dương chắc chắn sẽ thu hút sự tò mò của số đông người đọc hơn chuyện tình (cũng vụng trộm) của đôi trai gái hừng hực làm Cách mạng trong Kiên ngạnh như thủy, và chắc chắc là ăn đứt tấn bi kịch của tri thức trong Phong nhã tụng, nhỉ 
Về ý tưởng tiểu thuyết, Người tình phu nhân sư trưởng và Kiên ngạnh như thủy đều xoay quanh thời kỳ cao điểm tôn thờ cá nhân lãnh tụ, thần tượng (1967) và cuộc Đại Cách mạng Văn hóa Trung Quốc (1966-1976) được coi như một hiện thực hoang đường-thời kỳ Cách mạng đầy biến thái bệnh hoạn hoang đường ở đất nước này. Ở cả Người tình phu nhân sư trưởng và Kiên ngạnh như thủy, dường như các nhân vật chỉ có thể đạt tới khoái lạc xác thịt khi được làm tình bên cạnh những hình tượng, cuốn sách Đỏ, khẩu hiệu của Mao Chủ Tịch, những khẩu hiệu Vì nhân dân phục vụ, những ca khúc Cách mạng trên loa đài... tình dục có khả năng đưa con người ta đến được miền đất phiêu ziêu cực lạc thì tinh thần, ý chí "làm Cách mạng" hay lấy sự tôn thờ cá nhân lãnh tụ ra để minh chứng cho đỉnh cao tình yêu với những con người trong hai cuốn tiểu thuyết này cũng vậy, có thể xem đã đưa họ đến cõi trên cao, nắm bắt được kích thước của "Vĩnh Hằng Cách mạng" (ha, Cách mạng ơi là Cách mạng) chính vì thế tôi mới nói hai cuốn tiểu thuyết này viết về một giai đoạn hoàn toàn biến thái của Trung Quốc, đặc biệt là cuốn Kiên ngạnh như thủy, cảnh có thể xem là đỉnh cao ung bệnh chính là ở chùa Trình (khoảng trang 400), đôi uyên ương làm Cách mạng cực kỳ bệnh hoạn, có thể xem như ăn mù tạt ở xứ Tàu đi . Cuối cùng thì sao, người Cách mạng lại bắn súng vào não sau người Cách mạng. "Cách mạng vẫn chưa thành công, đồng chí à, bạn vẫn cần cố gắng" 

Phong nhã tụng cũng vẫn là chủ nghĩa hiện thực hoang đường nhưng nó là mặt của giới trí thức đương đại, nếu coi Phong nhã tụng là cuốn tiểu thuyết của Hèn Đại Nhân thì cũng chẳng hề sai. Đọc Phong nhã tụng, tôi thực sự kiên nhẫn, đi hết từ ngớ người này đến ngơ ngẩn khác, không khỏi ngạc nhiên con người trí thức có thể hèn đến mức như vậy hay cái hèn này là đỉnh cao của sự bỉ đời. Đến tận trang 390 tôi mới tóm được cái mình sẽ viết về, tức là đến cao trào bao nhiêu mủ chất trong tim kẻ trí thức như được nặn ra hết thì tôi mới chạy lại trong đầu mình từ đầu tới giờ tôi đã đi cùng cái anh trí thức Hèn Đại Nhân này qua những gì 

Có rất nhiều tác giả đã quyết định gắn mình vào một vùng lãnh thổ (nghĩ ngay đến một tác giả VN tôi đặc biệt quan tâm, Nguyễn Bình Phương gắn mình vào vùng đồi núi phía bắc), Lý Nhuệ là vùng nào nhỉ (quên xừ nó tên), có thể sắp tới tôi cố gắng đọc Mạc Ngôn hơn nữa với Cao Mật, còn Diêm Liên Khoa là quê hương Bả Lâu, dãy núi Bả Lâu ( ý tưởng sáng tác cuồng vọng mà tản mạn của tác giả: Năm tháng Bả Lâu). Tại sao tôi lại quyết định đọc Diêm Liên Khoa liền 3 tiểu thuyết? Vì ông tạo dựng câu chuyện của mình với những tình tiết gần như là hoang đường, hoàn toàn không thể xảy ra trong cuộc đời được, nhưng những hoang đường ấy lại biểu đạt một quá khứ rất thật, hiện thực trần trụi thê lương, một tấn bi hài kịch cười không được khóc không xong.
Người tình phu nhân sư trưởng và Phong nhã tụng được dịch bởi Vũ Công Hoan, còn Kiên ngạnh như thủy là Minh Thương, cảm quan người đọc ngay từ những trang đầu tiên, ví như tôi là kẻ đã đọc hai quyển Người tình phu nhân sư trưởng và Phong nhã tụng của Diêm Liên Khoa trước thì ngay khi bập vào Kiên ngạnh như thủy đã nghĩ ngay, ồ, đây mới là thứ dịch có thể tóm đúng văn của Diêm Liên Khoa này; ôi zởi, sao giờ mới xuất bản đúng giọng văn của Diêm Liên Khoa chứ hahaha.

ps: lần sau không chơi đọc một mạch cả mấy quyển của một tác giả Trung Quốc đâu, ngán thấy cụ cố luôn 

14.7.15

Bách khoa thư cho tất cả những ai, mà một ngày nào đó, từng ngồi mơ mộng, một mình, trong góc phòng ;)



Đây, giới thiệu với các bác các anh chị em, các bạn và các cháu nhỏ, bộ sách vô cùng lý thú, hay ho tuyệt cú mèo, tuyệt đỉnh kung-fu Bách Khoa Thư này. Tôi theo bộ này từ đầu 2010, sách do NXB Kim Đồng làm, tốc độ như các bác thấy, từ đầu 2010 đến giờ là giữa 2015 được 3 quyển, gồm: Bách Khoa Thư Học Sinh Lười (có cả những kẻ phá cách, bậc thiên tài); Bách Khoa Thư Những Người Cứng Đầu (gồm cả những kẻ phản kháng, nhà cách mạng) và Bách Khoa Thư Những Nhân Vật Kinh Điển (có cả các hình tượng và các bán thần khác)
Các bậc phụ huynh đừng quá trông đợi con em mình đọc bộ sách này với hy vọng còn phải ốc nhồi cho con mình hơn nữa để được như con nhà người ta, để thành từ điển sống nhắc tới ai trong sử sách là biết người đó, để con nó học hành phấn đấu noi theo gương, trở thành những người đi vào sử sách vân vân và vân vân vì thoạt nghe cái tên là Bách Khoa Thư  . Bộ sách này chọn viết những nét đặc trưng nhất nhưng đặt bên cạnh những điểm nhược nhất, góc khuất nhất, những lời tự trào, khúc quanh nhỏ nhặn, mơ mộng của nhân vật được nói đến, và nhân vật được chọn cũng oách xà loách quá đi, tức là ngoài chuyện họ giỏi, họ vượt số phận, định kiến, họ còn hết sức cà tưng, như Einstein thì học hành thậm tệ bê bết hay nói đến Robinson Crusoe, tác giả lại chọn nói đến suy tư "ta sinh ra để làm kẻ hủy hoại chính mình" đậm chất cô đơn và triết học tôn giáo như thế  (bố mẹ các cháu đọc còn suy tư muốn tung bô nói gì đến các cháu) hay đọc về các vị thần trong thần thoại Hy Lạp để nhận ra, thuở xa xưa con người coi chiến tranh là lý do để trở thành người hùng, nơi cái chết là vinh hạnh lớn nhất vân vân và vân vân
thậm chí những điều đơn giản đến bất ngờ, như là ông già Noel được một giáo sư yêu thơ ở New York tên là Clement Moore phát minh vào đầu thế kỷ 19, dựa vào những truyền thuyết cổ của Bắc Âu, ồ, là thế đấy, chớ không phải xa xưa tít mù khơi gì đâu 
Sách có dẫn nhập dễ hiểu, minh họa tranh hài hước. Tôi kết nhất đoạn lời tựa đầu sách của quyển bìa xanh:
"Cho dù gốc gác thế nào, họ đã giữ lại một chút hào quang thần thánh nhờ sự gần gũi bản nguyên với núi Olympus, khiến họ trở nên rất cao quý đối với chúng ta. Nhất là ở thế kỷ 21 này, một thế kỷ đòi hỏi lý trí nhưng lại rất đáng thất vọng.
Những nhân vật giả tưởng này có thể làm mọi thứ hoặc gần như vậy...Họ hơn chúng ta nhiều lắm! Không có giới hạn nào.
Mạnh hơn, đẹp hơn, thông minh hơn! Và, hơn nữa, họ đã diệt trừ triệt để một thảm họa của nhân loại, đó là sự buồn chán!"

Không có những con người này, nhân vật này, thế giới có đi lên theo một cách khác không? Chúng ta sẽ ra sao nhỉ 

11.7.15

Sách và Trẻ em


Thế giới trong trang sách và trẻ em là hai con đường dẫn đến cùng một điều: làm cho ta kinh ngạc mỗi ngày 
Mười chín câu chuyện trong Thế giới không trẻ em và những câu chuyện khác được viết bởi một người đàn ông sinh năm 1962 Philippe Claudel, một người lớn đã từng là trẻ con viết những câu chuyện nhỏ, những câu chuyện thơ mang màu sắc ngụ ngôn với giọng điệu như lời thủ thỉ, chia sẻ của các cô bé, cậu bé để cho chính những người lớn đọc. Tính chất ngây ngô, vòi vĩnh, nũng nịu trong giọng văn này bao trùm lên các câu chuyện một sắc thái tóm gọn chiều kích của cả ánh sáng và đêm tối, nụ cười và nước mắt, điều đau đớn, giấu giếm cũng như cảm giác hạnh phúc, hay gọi lên tên của những điều ta đã giả vờ quên đi, giả vờ ngơ...làm người đọc không ngừng ngạc nhiên, phải chăng phải làm cha, làm mẹ người ta mới có năng lực viết theo cách đưa thế giới vào trang sách và phóng chiếu cùng một thế giới ấy ra khỏi trang sách vừa tuyệt đẹp vừa đau đớn mà vẫn lấp lánh ánh nhũ từ đôi cánh của các cô tiên tí hon trong xứ sở thần tiên như thế này, phải làm cha làm mẹ của trẻ con thì người ta mới được hưởng đặc ân không ngừng ngạc nhiên mỗi ngày với đứa trẻ trước mắt mình đây 
Điều khiến tôi thích gần như cả 19 câu chuyện nhỏ trong tập sách này là dù ngắn, thậm chí rất ngắn thì nó cũng khiến người đọc như được một đứa trẻ cầm tay dắt vào thế giới như khu vườn bí mật, thế giới trong con mắt của trẻ em tạo ra, thế giới nhiều màu sắc, đẹp ngỡ ngàng, dung chứa nhiều cái cho ta tìm hiểu lại chính ta để khai thác, thăm dò những sắc thái, mùi vị ta đã quên, như giúp ta tái cấu trúc chính mình. Đấy mới chính là nét độc đáo của Philippe Claudel, giống như lời đầu sách ông có nói cuốn sách tặng cho trẻ thơ sẽ trở thành người lớn và cho những người lớn đã từng là trẻ thơ 

Tôi sẽ còn quay lại tác giả này ít nhất 2 lần nữa, các bạn có thể đọc được tập truyện mỏng này trên internet, định dạng file .pdf, hiện tại còn một quyển cùng tác giả, cũng mỏng mỏng thôi, là: Cháu gái ông Linh mà tìm khắp phòng chưa ra . Mỗi một truyện ngắn trong tập truyện này vừa có thể cười vừa có thể nhệch mép vừa có thể khóc vừa có thể cau mày nhăn trán suy nghĩ. 

ps: Câu chuyện rất ngắn cuối cùng của tập truyện này là Nói dóc, có người đàn ông bé đi sau mỗi lần nói dối, sau mỗi giây, mỗi lời anh ta nói, anh ta lại bé đi một vài xăng-ti-mét. Con Lốc cũng không nói gì nữa đâu, mọi người tìm đọc đi nhá, nói nữa thì con Lốc cũng bé tí đi từng giây một, đến lúc không còn tồn tại nữa thì chán chết như cô gái tí hon nằm trong bong bóng xà phòng bay đi ngao du thiên hạ chả được mấy nả mà chạm nhẹ đã nổ t...á...c...h một tiếng nhẹ nhàng trong không khí vỡ òa í 
-có nhân vật Zazie làm vắc xin để con người trở nên tử tế í, tính cách đúng kiểu Zazie trong tàu điện ngầm của Raymond Queneau nhỉ 
-bản dịch tiếng Việt rất tự nhiên, hình như cả 4 đầu sách của Philippe Claudel ở Vn cùng một người dịch Trịnh Thu Hồng

*lại bị bé đi một ít roài, chả nói nữa đâu, gõ lại truyện đầu tiên mời gọi các bác nhá* 

Thế giới không trẻ em 
(Trích trong tập: Thế giới không trẻ em và những câu chuyện khác của Philippe Claudel)

Một buổi sáng đẹp trời, hay đúng hơn một buổi sáng xấu trời, đúng, đúng thế, một buổi sáng thực sự xấu trời, khi người lớn mở mắt ra, họ nhận thấy đã xảy ra điều gì đó kỳ quặc. Không một tiếng động. Không một tiếng cười. Không tiếng líu lo. Không có gì hết: bọn trẻ con đã biến mất! Khi tôi nói bọn trẻ con, tôi muốn nói là tất cả trẻ em, khắp nơi trên thế giới, trên mọi đất nước, ở tất cả các thành phố, ở mọi vùng thôn quê. Người ta uổng công tìm kiếm, sục sạo, huy động lính cứu hỏa, , cảnh sát, binh lính, người ta không hề thấy một đứa trẻ nào. Cái duy nhất người ta có được trong tay là một mẩu giấy hơi nhàu với chữ viết nhỏ vụng về, đầy lỗi chính tả, ghi lại tin nhắn sau: "Chúng con bị rầy la xuốt nghày, mọi người hông bao dờ nge chúng con, chúng con hông được trơi đùa khi chúng con muống, chúng con phảy đi ngủ xớm, hông được ăng socola chên giường, lúc nào cũng phảy đánh dăng: chúng con trán người lớn lắm rùi: chúng con đi đay. Chúng con để mọi người lại!" và ký tên: "Trẻ eng".
Nỗi kinh hoàng chung! Cha mẹ đau khổ không tài nào an ủi được! Các gia đình khóc lóc! 
Các ông hoàng và những người đứng đầu chính phủ hứa sẽ tìm lại được bọn trẻ. Nhưng bọn trẻ này trốn rất kỹ. Bọn chúng tập trung nhau lại trong ốc đảo Kerambala, nằm tận miền Nam Marédanie, một vùng đất người lớn không thể vào được. Ở đó không ai quấy rầy bọn trẻ con. Có thừa thãi đồ ăn thức uống. Bọn trẻ có thể không phải rửa ráy, có thể đi ngủ vào lúc nửa đêm. Chúng không phải đi học. Chúng để móng tay móng chân mọc dài ra. Chúng chơi suốt cả ngày. Chúng nhồi đầy kẹo. Mỗi ngày chúng thi olimpic nhảy cừu. Và nhất là, nhất là không bao giờ chúng để phải rầy la! Không bao giờ.
Trên các kênh truyền hình, Giáo hoàng cầu khẩn bọn trẻ con, Đạt-la Lạt-ma Tây Tạng đọc cho chúng nghe một bài thơ. Tổng thống tất cả các nước cộng hòa hứa phát cho chúng kem dâu mỗi ngày và đưa các giờ phim hoạt hình bắt buộc vào trường học. Tất cả các bậc phụ huynh nài nỉ những đứa con yêu dấu của mình. Các đài phát thanh liên tục truyền đi những tiếng nức nở của các ông bố và các bà mẹ, điều này làm bọn trẻ cười rũ ra. Nhưng nhất là, nhất là, thế giới trở nên buồn khủng khiếp. Các thành phố giống như những vùng đất chết. Các công viên và khu vườn chìm trong một giấc ngủ kỳ lạ. Các ngôi nhà im ắng. Những người lớn lang thang như những linh hồn đau khổ, không nhìn nhau, không nói chuyện với nhau.
Một hôm, bọn trẻ quyết định thấy bài học chúng cho như thế đã khá dài. Tất cả cùng trở về nhà vào cùng một lúc và ngày hôm sau, trên khắp hành tinh, người lớn lại thức dậy với những trẻ em.
Lễ hội khắp nơi! Pháo hoa! Bao nhiêu là cái hôn!
Bọn trẻ con được chào đón như những người anh hùng và được tiếp đãi như những ông vua. Người ta hứa với chúng tất cả những gì chúng muốn. Một lần nữa Trái đất lại quay tròn.
Nhưng thời gian trôi đi với tất cả mọi người và với cả bọn trẻ nữa. Và một ngày này hay một ngày kia, chúng trở thành người lớn và trở thành cha mẹ cũng có những đứa con, những đứa con chúng yêu quý vô cùng tuy nhiên cũng phải rầy la, trừng phạt và những đứa con làm cho chúng phải càu nhàu. Bởi vì, bạn thấy đấy, vấn đề ở chỗ khi người ta lớn, người ta quên, người ta hầu như quên hết mọi thứ và nhất là người ta quên mình đã từng là trẻ con.
Thế là một buổi sáng đẹp trời, hay đúng hơn một buổi sáng xấu trời, đúng, đúng thế, một buổi sáng thực sự xấu trời, người ta tỉnh dậy, "Chúa ơi! Đã xảy ra chuyện gì vậy?" và họ nhận thấy bọn trẻ con đã biến mất! Khi tôi nói bọn trẻ con, tôi muốn nói là tất cả trẻ em, khắp nơi trên thế giới, trên mọi đất nước, ở tất cả các thành phố, ở mọi vùng thôn quê. Người ta uổng công tìm kiếm, sục sạo, huy động lính cứu hỏa, cảnh sát...
(hết)

ps: chưa phải truyện hay nhất nhưng sẽ tiếp cận được nhiều người đọc hơn. Cuối tuần vui vẻ ;)

10.7.15

Một trận ốm



Một cốc trà đá vỉa hè lúc 2 giờ sáng, tạo ra một cái họng sưng đau tấy đỏ. Thuốc là đây chớ đâu. Cảm ơn những người bạn trên mạng xã hội, đôi khi chỉ cần hiểu nhau đủ thế này thôi, đã thấy ấm áp và được quan tâm lắm rồi ạ :* yeahhh

6.7.15

Cảm hứng tháng 4


Ngay khi đọc xong Chỉ còn 4 ngày là hết tháng Tư, tôi biết rằng mình sẽ khó đọc thêm Thuận với những tác phẩm ở thì tương lai. Cách viết câu ngắn, lặp lại cấu trúc câu, lặp lại câu-đoạn như một điệp khúc, giọng văn lạnh lùng, giễu nhại đến một lúc nào đó sẽ thành món ăn lạ nhưng gây bội thực cho người ăn. Và nhất là khi, cái lạ, cái có sức hút, chiều sâu trong câu chuyện của Thuận, cái nhìn đau đáu từ các tác phẩm trước đây càng ngày càng xa rời thì tôi hiểu rằng kẻ đọc là tôi và người viết Thuận đang chào tạm biệt nhau giữa con đường liên tuyến người viết-người đọc. Chỉ là đến lúc, không còn hứng thú theo đuổi một người viết nào đó nữa mà thôi.
Chỉ còn 4 ngày là hết tháng Tư có thể được xem như cảm hứng từ con số 4 (tháng Tư) gồm 4 chương, mỗi chương 4 mục giăng mắc dày đặc các sự kiện, địa chỉ, con người, sự vật, sự việc có con số 4...này cũng như các cuốn tiểu thuyết trước đó của Thuận, đòi hỏi người đọc tập trung, tỉnh táo trước và ngay khi lao vào mạch truyện mà Thuận giăng bẫy. Thời gian, không gian, nhân vật ở thời quá khứ-hiện tại đan nhau, mối quan hệ chồng chéo giao nhau phải để ý vào những chi tiết nhỏ nhưng mấu chốt để nắm bắt câu chuyện. Ở Chỉ còn 4 ngày là hết tháng Tư là câu chuyện tuyến:
- Hắn-M-nàng-thời sinh viên y khoa-Paris
- Hắn-vợ-cô-bác sĩ 44 tuổi có phòng khám riêng-Paris-Saigon-Paris
-(câu chuyện in nghiêng) Nàng-Ân-ngôi nhà nàng có quầy thuốc của má bị kiểm kê niêm phong tài sản diện tư sản-ngôi nhà gia đình cô nhận được khi có công với cách mạng
phải đến tận các chương cuối người đọc mới nhận ra sợi dây liên kết các nhân vật hiện tại-quá khứ. Từ đó phóng chiếu lịch sử một giai đoạn quan trọng và nhiều ý nghĩa với mỗi người VN
Ps: Tôi bị chua hai đoạn bài hát này
"nếu là chim tôi sẽ là 4 bồ câu trắng, nếu là hoa tôi sẽ là 4 đóa hướng dương
nếu là mây tôi sẽ là 4 vầng mây ấm
nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương"

"Anh nằm xuống sau 4 lần đã đến đây. Đã vui chơi trong cuộc đời này. Đã bay cao trong cuộc đời đầy. Rồi nằm xuống, không bạn bè không có ai"
- bìa sách làm tôi nhớ đến tập truyện Con thuyền của Nam Lê, ở một góc nào đấy, câu chuyện cũng gợi đến điểm chung nhỉ: thuyền nhân