Over and over I whisper your name. Over and over I kiss you again
TT&NT

29.7.18

Con người và động vật

Ivan có một không hai là câu chuyện hư cấu dựa trên những sự việc có thật về chú khỉ đột tên Ivan. Sau khi bị bắt cóc ở quê nhà [Congo], hai anh em Ivan còn nhỏ được di chuyển sang Mỹ, trên đường đi em gái của Ivan qua đời và Ivan từ đó một mình sống giữa con người, sau đó là trong một trung tâm thương mại mô phỏng rạp xiếc, một mình trong lồng suốt gần ba thập niên. Sau khi kênh National Geographic công chiếu bộ phim về Chú khỉ đột thành phố, nhờ những lá thư kêu gọi của các cô bé cậu bé và sự phản đối của nhiều người thì Ivan đã được sống trong một sở thú đúng nghĩa – nơi con người sửa sai. Giống với Ivan trong Ivan có một không hai, khỉ đột Ivan ngoài đời cũng biết vẽ tranh 🙂 Ivan có một không hai là một câu chuyện có nội dung không mới mẻ nhưng được viết với trí tưởng tượng đáng nể của Katherine Applegate [giờ tôi mới biết bà ấy là tác giả của Animorphs :p], tác giả cho Ivan cũng như cô voi Stella, bé voi Ruby, chó Bob những tiếng nói độc lập của riêng chúng, được trở thành chính chúng “lưng bạc vĩ đại” [-một con khỉ đột đực trưởng thành đã bước qua tuổi mười hai, trên lưng có khoảng lông màu xám bạc, biểu tượng của quyền uy, giữ trọng trách bảo vệ cả bầy] như vốn dĩ đã là định mệnh. Một câu chuyện ngợi ca lòng nhân ái, sự dũng cảm và cổ vũ cho khả năng tiềm tàng trong mỗi người; đặc biệt nó sẽ giúp ta nhìn nhận mối quan hệ giữa con người và động vật với con mắt hoàn toàn khác [tôi quyết tâm hơn nữa, sau EMi sẽ không nuôi con gì nữa :(], con người ngu ngốc làm sao và sống giữa văn minh này cũng như sự xâm chiếm của con người vào vùng đất hoang dã thì loài vật đã bao dung cỡ nào, một sự bao dung gồm cả cam chịu đến mức vĩ đại, gần như phi lý Một câu chuyện đơn giản, uyển chuyển, thông minh và dễ hiểu dành cho các bạn nhỏ [và cả người lớn] về bảo vệ động vật. [trong cây tiến hóa thì người, tinh tinh, khỉ đột, đười ươi đều thuộc họ Người, Hominidae, Great Apes mà sao bọn người ló ác thế nhỉ, các ác xuất phát điểm từ u u mê mê ngu muội í, nhưng thôi, phải hy vọng vào những đứa người ít ác hơn những đứa khác, hay những con người tốt, có hy vọng vào ngày mai cùng những điều tốt đẹp hơn thì mới chịu đựng nổi hiện tại, right] [‘’Ôi con người. Chuột thậm chí còn nhân hậu hơn. Gián thậm chí còn tử tế hơn. Ruồi thậm chí còn…” – trích lời chó Bob] p/s: quyển này mình mua trong hội sách, quầy NN giảm 50% và đấy là lần đầu tiên mình nhìn thấy nó, không giống nhiều sách của NN một ngày nhìn thấy cỡ chục lần trên fb group nhóm hội đọc sách, may quá giờ tôi chả chơi đâu cả, đầu tôi sẽ mọc tóc tốt hơn nữa í hị hị hị hị khửa khửa khửa

25.7.18

lịch sử

Khi con người trao lý tính cho lịch sử thì thường biến lịch sử thành trò bịp bợm có lợi cho mình. Lịch sử tồn tại được là nhờ những đôi mắt quan sát nó, có lịch sử chân thực không, đôi mắt nào đủ tự tin và cái nhìn độc đáo Bốn tiểu thuyết và một tập truyện ngắn của Lý Nhuệ đều là những câu chuyện lịch sử - câu chuyện, tất nhiên có thể hư cấu, nhưng tình tiết thì không thể bịa đặt. Đọc Lý Nhuệ luôn là bầu không khí tĩnh, lặng gió, dễ chịu vô cùng nhưng bi thương âm ỉ, đôi khi nóng giãy cùng cực Lần cuối cùng tôi đọc Lý Nhuệ cách đây 8 năm, lần đọc này chỉ có Cây không gió là đọc mới, tôi đọc theo trình tự sáng tác: - Tập truyện ngắn: Đất dày (Hậu thổ), 1989 - Tiểu thuyết: Chốn xưa (Cửu chỉ), 1992 - Tiểu thuyết, truyện dài: Cây không gió (Vô phong chi thụ), 1994 - Tiểu thuyết: Ngàn dặm không mây (Vạn lý vô vân), 1996 - Tiểu thuyết: Ngân Thành cố sự, 2002 Thôi viết ngắn gọn thôi vì tầm này ai đọc Lý Nhuệ nữa, sự đọc thì vô cùng riêng tư, người đọc luôn giữ lấy sự đơn độc tinh thần, ghét sa cạ bầy đàn, đua theo, riêng tư như tình dục ấy, kể cả có chơi three-some hay gì thì cũng có giới hạn rất rõ ràng và vẫn cứ là riêng tư. Nên tầm này ai còn đọc Lý Nhuệ 🙂 • Tôi vẫn thích tập truyện ngắn Đất dày nhất, văn đẹp, chậm rãi, các truyện ngắn đơn giản nhưng chọn tình tiết để xoáy vào thì sắc và chắc, giàu hình ảnh, chân thực… đọc dễ chịu vô cùng. Đi qua một vài câu văn đầu tập Đất dày đã có ngay thứ khoan khoái được thả lỏng người, một cảm giác bằng lòng thư thái giữa trập trùng núi non và cao nguyên lộng gió [núi Lữ Lương], người ta như đứng từ xa bình thản nhìn lại những khôi hài vô lý hoang đường bi kịch của lịch sử, của Đại cách mạng văn hóa • Với tôi, nỗi buồn chính là Ngân Thành cố sự và Chốn xưa [khóc hay không khóc được thì người ta vẫn cứ phải ngẩng mặt nhìn trời xanh một tị], cả hai đều chọn Ngân Thành [một địa danh hư cấu], dòng Ngân Khê làm bối cảnh câu chuyện diễn ra, xoay quanh các gia tộc lớn [rất nhiều tình tiết xoay quanh dòng họ của tác giả] với nghề làm muối, sự biến động của con người trong dòng chảy lịch sử từ đầu thế kỷ 20-giai đoạn cuối phong kiến [ở Chốn xưa là đến tận khi người ta có quãng dài để nhìn lại Đại cách mạng văn hóa]. Tương lai và vận mệnh của họ đều thành nạn nhân của vòng tròn bất tận gồm những cuộc lật đổ, cách mạng, phản cách mạng, đấu tranh, thảm sát... Chốn xưa ướt át hơn và có lẽ sẽ dễ lấy lòng người, nhưng Ngân Thành cố sự viết sau Chốn xưa 10 năm mới thực là câu hỏi lớn, lịch sử là gì, trong dòng chảy lịch sử thì con người là gì, đối diện với thời gian sinh mệnh là gì. Những gì mà hai tiểu thuyết này gợi ra, quạnh quẽ vô cùng, trời đất thì dài lâu vĩnh cửu, nhìn phía trước người xưa vắng vẻ, ngoảnh về sau quạnh quẽ vắng bóng người, tất cả là giả và tất cả cũng đều là thật, và nó thuộc về những người Trung Quốc còn sống và đã chết. • Rất nhiều người ấn tượng Cây không gió, tôi gộp chung Cây không gió và Ngàn dặm không mây vào làm một vì cách viết chương tiếp chương, mỗi chương là một nhân vật xưng tôi / mình tự sự, câu chuyện cứ nối tiếp câu chuyện như các nốt nhạc trong bản nhạc, giàu nhạc điệu, cách viết rất táo bạo của một Lý Nhuệ khác, ra khỏi khung của mình. Cây không gió diễn ra ở một làng người lùn, cả làng lấy chung một cô vợ lành lặn bình thường, lùn cũng là người, không lùn cũng là người, là người phải gánh tội của con người, không thể thoát khỏi sự cô đơn, không sao tránh được tuần tự: con người sống ở đời, sống cũ sống mòn rồi được mặc cho bộ quần áo mới, nằm vào cỗ quan tài mới, thế là chết và tất nhiên, bị dòng chảy lịch sử nhào nặn; đường đời, đang sống là những người chưa đi đến cuối đường, chưa đi đến cuối đường thì chưa thể nhìn thấy cái gì, tất cả những người chết đều đi đến cuối đường, nhưng mà có nhìn thấy gì lúc ấy thì cũng không cần thiết nữa rồi vì mẹ kiếp, cố gắng mấy thì ích chi nữa, kiếp người thật ra cũng một chữ thôi, là ‘khổ’ hay ‘tội’ thì khác gì nhau. Ngàn dặm không mây, Lý Nhuệ đưa người đọc quay về núi Lữ Lương, cũng cách viết như Cây không gió nhưng chậm hơn, không đa dạng âm thanh, đọc Ngàn dặm không mây luôn có cảm giác ngày lại ngày đối diện với sự câm lặng của dãy núi Ngũ Nhân Bình trải dài, nó đẩy không chỉ nhân vật chính-thày giáo trẻ mà cả người đọc vào sự cô độc, tĩnh lặng không người thấu hiểu, không sao lý giải nổi • Có bóng dáng của gia tộc Lý Nhuệ trong các trang viết, ông gắn mình vào núi Lữ Lương và Ngân Thành địa danh hư cấu, nhưng ông không viết lịch sử dòng họ, hay viết về một vùng núi, một thành, một chuyện. Ông viết về con người, về sinh mệnh, và về Trung Quốc. Nên đọc các bài phỏng vấn, lời bạt cuối sách [lâu rồi sách NN không có phần này nhỉ] Thời đại nào mà chẳng là hai vai nâng cái đầu cột gỗ không mọc rễ không đứng vững được lịch sử như năm tháng dài lâu, vần vũ đất trời, luân hồi sống chết lẽ nào thoát vòng luân hồi, nhìn người khác và người khác nhìn

24.7.18

Kenji Miyazawa

[Nhịp của tĩnh] Matasaburo - Từ phương của gió, câu chuyện có nội dung giản dị xoay quanh những ngày tháng như gió thoảng của một cậu bé do công việc của cha phải chuyển về sống ở một ngôi làng vùng núi hẻo lánh. Câu chuyện phần lớn là các câu trần thuật ngắn vẽ nên bức tranh thiên nhiên sống động song không kém phần nên thơ và về tình bạn trẻ thơ thi vị, trong sáng với rất nhiều cung bậc xúc cảm cho người đọc - như gió mát thoảng qua để lại nhiều dư vị ngọt ngào Chuyến tàu đêm trên dải Ngân Hà mang màu sắc khắc hẳn. Niềm vui của khám phá, nỗi buồn lo của những gì sau lưng và những gì mơ hồ phía trước đan xen hiển hiện xuyên suốt chuyến du hành qua những vì sao của cậu bé Giovanni. Chuyến tàu đêm băng qua dải Ngân Hà là lăng kính phúng dụ quá trình trưởng thành, hào quang trưởng thành chói lọi màu sắc, hài hoà cũng không kém phần hỗn loạn. Mỗi đứa trẻ đều phải trả một giá nào đấy gần như bị động, vô thức và bắt buộc để đặt lại 'nó' ngoài hành lang trước khi mở cánh cửa mang tên 'trưởng thành'. Một câu chuyện làm tôi liên tưởng đến Hoàng Tử Bé, Tàu tốc hành Bắc Cực 🙂 [tình bạn thời thơ dại của tôi còn lại gì nhỉ, tôi thoáng cười buồn] hihihi, hãy đến với quyển cũ rích trong ảnh, Người săn gấu và mèo rừng, một tập truyện ấn tượng hơn cả. Gồm 9 truyện ngắn, phần lớn các nhân vật là các con vật sống trong rừng, hoặc các con vật sống giữa loài người cùng nói với nhau một ngôn ngữ - những câu chuyện viết cho người lớn từng là trẻ con. Thế giới của tập truyện hiện ra sinh động với trí tưởng tượng phong phú của Kenji Miyazawa thấp thoáng hình bóng của truyện dụ ngôn, ngụ ngôn, hay chút ít của Andersen và nó làm tôi nghĩ đến gì 🙂 rằng số phận làm việc theo những cách kỳ diệu riêng của nó 😛, thật đấy Điều còn lấn cấn duy nhất, vì lấn cấn nên không đặt được tựa đề, luôn có cảm giác Kenji Miyazawa thiếu gì đấy hay là thừa nhỉ, có lẽ là thiếu ở nhịp độ, hay là, thừa tĩnh; mà thật ra thì, tĩnh cũng có nhịp của tĩnh 😛

5.7.18

Cửu chỉ

Tôi nghĩ, không có lịch sử ‘chân thực’ đối diện với lịch sử, con người là gì đối diện với thời gian, rốt cuộc sinh mệnh là gì Tôi nằm khóc suốt sáng ngày hôm kia khi đọc những chương gần cuối của Chốn xưa, phải rất dũng cảm để mỗi ngày tiến thêm một vài trang đi cho đến cùng câu chuyện Chốn xưa. Lý Nhuệ viết lời bạt 1 và 2, trả lời phỏng vấn đã tóm gọn Chốn xưa trong ít trang cuối sách. Một tiểu thuyết vừa tuyệt vọng vừa như ngời sáng với chất văn đẹp tê tái kể câu chuyện ngột ngạt ‘rất quen của Trung Hoa’, lòng người ta tịch nhiên ưu uất. Đọc lại Lý Nhuệ sau gần nhất cũng 8 năm, nỗi buồn trầm thiết len qua trang viết tê buốt giữa mùa hè Hà Nội. Rùng mình P/s: tôi còn quay lại Lý Nhuệ trong cơn ẩm ương khác :)

21.6.18

Cái gì không chết

Trilogy: Cuốn vở lớn, Chứng cứ, Lời nói dối thứ ba của Agota Kristof là cơn chấn động với cá nhân tôi, trong năm nay (thậm chí nhiều, rất nhiều năm sau nữa). Không màu mè kiểu cách, không mảy may thái quá, hóa ra người ta có thể viết về nỗi thống khổ trong chiến tranh, cách mạng, dưới chính thể chuyên chế độc đoán, nỗi thống khổ đeo đẳng suốt cuộc đời bằng một lối văn trào phúng, bình thản và u uất như thế Câu chuyện Cuốn vở lớn diễn ra trong Thế chiến II, những chi tiết mảnh và sắc về Holocaust, được kể qua con mắt của những đứa trẻ, hai anh em sinh đôi Klaus (Claus) và Lucas, hai đứa trẻ 9 tuổi sống với Bà Ngoại Phù Thủy mù chữ, bẩn thỉu, keo kiệt, độc ác, thậm chí từng giết người (đầu độc chồng bằng thuốc độc), chúng sống nhọc nhằn và cực khổ. Hai đứa trẻ học cách nắm lấy vận mệnh của mình bằng làm việc, tự học, tự kiếm sống, tự rèn luyện tinh thần: tự đánh cho nhau đau để quen với cái đau, tự nói đi nói lại những lời yêu thương như điệp khúc cho đến khi nỗi đau mà những lời yêu thương mang lại không còn đau đớn nữa, luyện nhịn đói, luyện không nói, một đứa giả mù một đứa giả điếc, đứa mù là cái tai của đứa điếc và đứa điếc là đôi mắt của đứa mù… Chúng sống sòng phẳng, tôn trọng sự thật, đôi khi tự kiêu mang hình bóng của tội lỗi, côn đồ khi cần côn đồ, tốt với kẻ yếu thế một kiểu cho đi dễ hơn nhận lại, chúng thiết lập quy tắc làm người của riêng mình… nhưng đâu đó người đọc nhận ra chúng bị tước đi, thậm chí vờ như quên đi những ý niệm sơ đẳng nhất về đạo đức, luân lý. Ở phần này, tác giả viết với lối trào phúng bình thản đến lạnh người, người ta đồng thời vừa có thể cười vừa có thể đau đớn, đôi khi người ta cứ ngồi lặng im chờ những đợt sóng qua đi Phần sau, Chứng cứ là cách viết u uẩn chậm rãi gần như co hẹp chiều dài câu chuyện lại cho đến khoảng 20 trang cuối phần này thì cánh cửa bật mở, một phần ‘thân bài’ được kể tuần tự rõ ràng. Người ta thấy một nữ nhà văn kể những mẩu tưởng như rất thường của đời sống: người ta mất ngủ, người ta đi quanh thành phố, người ta mở cửa rồi người ta đóng cửa, người ta tỉnh rồi người ta say rồi lại tỉnh để tiếp tục say, người ta chết, mong được chết, giết chết người khác để mong tìm được bình yên tạm thời… nhưng những mẩu nhỏ ấy để bao lấy trọng tâm là chiến tranh và giết chóc, sự hủy diệt trong thế giới cực quyền; cuộc đời, tình yêu và nỗi cô đơn, những khao khát và nỗi tuyệt vọng. Trong suốt nhiều năm tôi tưởng rằng mình đã mất đi âm thanh khóc, thế rồi vào một buổi chiều hè Hà Nội, tôi gạt sách bật dậy khỏi giường, nghe mình tru lên và nước mắt bung ra để giải thoát những gì ngoài sức chịu đựng. Đúng vậy, người chết không ở đâu cả và lại ở khắp nơi, không phải ai cũng hiểu và thấy được đúng điều ấy, người ta phải có cùng một cơn ác mộng ngay khi đang thức thì mới hiểu nó. Nỗi đau vẫn còn đấy, chẳng mảy may cả thay đổi hình dạng, nỗi đau không giảm đi, chả có cái gì phai mờ cả, ‘cái gì mà không chết cơ chứ’ ‘giảm đi mờ đi’ chỉ là một cách nói ảo tưởng để (tự) an ủi. Có nhà văn nào viết về nỗi cô đơn, tuyệt vọng như thế này không, tôi không còn nhớ được nữa Lời nói dối thứ ba là một mê cung sự thật và hư cấu của hai anh em sinh đôi – một nhà thơ ghét người và một người thích viết, đâu là sự thật, đâu là tưởng tượng hư cấu, nếu đây là sự thật thì quyển 1 quyển 2 là gì; nếu đây là hư cấu, là không thật thì đâu mới là sự thật; nỗi thống khổ, bi kịch nào đưa người ta đến ranh giới hư cấu sự thật. Viết những câu chuyện thật nhưng đến một lúc nào đó câu chuyện trở nên không chịu nổi tính xác thực của chính nó, để kể một câu chuyện sự thật không phải ai cũng đủ can đảm. Nó làm người ta đau đớn. Bức tường sự thật – hư cấu không toàn vẹn được nữa, tính chắc chắn chỉ là ảo tưởng, màu trắng dễ bị dây bẩn, phải tô màu lên tất cả và sự việc sẽ được kể không như chúng đã xảy ra mà theo ý muốn rằng chúng phải xảy ra. Đây là phần được tác giả viết kỹ thuật cứng nhất, người đọc cũng buộc phải tỉnh táo để gạn lọc chi tiết, thiết lập một bộ khung gây dựng câu chuyện thực sự mà tác giả muốn kể. Xuyên suốt trilogy là hình ảnh châu Âu già cỗi cùng những vấn đề và nỗi đau của nó, người ta ra đi khỏi nỗi đau này, để tập sống xa ngọn lửa – ngọn lửa sau những cánh cửa, ngọn lửa do con người đốt lên để thiêu cháy thân thể những con người khác, biên giới địa lý là không đủ, người ta còn cần cả sự lặng câm nữa và rồi để đến với một nỗi đau khác, cuối cùng người ta vẫn chọn quay về với nó để gánh chịu cả quá khứ và tương lai. Cuộc đời như những màn kịch ngắn bình thản đến ghê rợn. Bầu không khí bao phủ của Agota Kristof là bầu không khí rờn rợn, cái rùng rợn trong câm lặng kín bưng điển hình của các nhà văn nữ, nó làm tôi nhớ đến một nhà văn Hungary khác tôi đọc mấy năm trước, chính là Szabo Magda với Cánh cửa – nhát rìu bổ xuống bộ khung cuộc đời Ai đã ra đi thì người ấy phải tự trở về. Phải trở về, vì đã ra đi. p/s: Sách đọc do Bồ Câu tài trợ. Các cụ cho trilogy này tái xuất đi, con đa tạ ❤. Bộ này không tái thì còn tái cái gì nữa ạ 😉

17.6.18

Tròn méo

Bạn nào hay xem phim Nhật thì thế nào cũng xem Confessions rồi, mình xem 4-5 năm trước thì phải. Phim được chuyển thể dựa trên Thú tội của Minato Kanae. Mình thích phim, lia máy chậm, ánh sáng ấn tượng, cách kể chuyện của phim rất súc tích và bàng quan, sự bàng quan này trong văn học, điện ảnh Nhật Bản luôn sắc nét Câu chuyện về hai cậu học sinh lớp 7 gây ra cái chết của cô bé 4 tuổi, con gái cô giáo chủ nhiệm lớp, được kể trong Thú tội qua 6 chương, mỗi chương là một góc nhìn, một lời thú tội / xưng tội của nhân vật chính trong chương ấy. Tất cả các nhân vật đều vừa là nạn nhân vừa là kẻ tội đồ méo mó trong bi kịch. Điều mình kinh ngạc nhất là kẻ giảng đạo cũng là kẻ truyền đạo đồng thời là người giận dữ méo mó nhất trong truyện, làm sao có thể sống với sự căm giận bệnh hoạn như thế, mà đúng ra phải là sự căm giận đến mức độ nào mới nuôi dưỡng người ta bền bỉ sống cùng nó 🙂, trong một cái vỏ tròn nhưng méo vượt trội, tròn gì mà lại tròn méo :)) Phim với mình thực sự ấn tượng, truyện và phim có nhiều chi tiết thay đổi cảm quan của người đọc, người xem về các nhân vật nhưng cách kể của truyện dù trong mỗi chương có chi tiết nòng cốt khắc họa rõ nét sự méo mó của kẻ thú tội ở chương ấy nhưng hành văn lặp lại nhiều, và thực sự không lôi cuốn như mình kỳ vọng, không đắt. Đọc truyện xong mình thêm yêu đạo diễn phim 🙂 Mình rất ưng phiên bản điện ảnh nhưng vẫn đọc truyện vì tò mò và vì đây là chủ đề mình quan tâm, tâm lý của bọn trẻ, mà tâm lý thì chỉ ngôn ngữ văn học mới nói được đủ đầy ‘những đứa trẻ và tại sao’, một chủ đề của tình thương méo mó, kỷ luật méo mó, giáo dục méo mó và lòng tin méo mó... sống luôn là có lỗi với ai đó nằm ngoài khả năng nhận biết của mỗi người, chưa nói đến ghét, thậm chí yêu thương ‘sai’ cũng là dạng tội lỗi kéo theo nhiều hệ lụy.

Thiên Môn hệ liệt

Kết thúc he he he chắc kéo dài 7-8 năm í nhỉ, bộ Thiên Môn hệ liệt 6 tập 🙂. Bộ này đọc giải trí thôi, viết lỏng lẻo kém dần đều. Khép lại tác giả cho mỗi nhân vật có một cái kết hợp tình hợp lý, nhưng viết sơ sài quá, người đọc cảm thấy mọi chuyện được viết đơn giản trái ngược hẳn với ý định xây dựng bộ khung chồng chéo kềnh càng ban đầu của tác giả. Hết tập 1 mình mong chờ thế nào thì đến hết tập 3-4 gần như không còn mong đợi gì nhiều, nên tập cuối thế này thôi cũng là tạm được P/s: đang ngồi đọc những trang cuối của tập 6 thì có hai bạn kéo một cái tay kéo có bánh xe, trên xe có làn nhựa đỏ, cầm 2 chai trà sữa vào “chị ơi, em là học sinh lớp 6, nghỉ hè bọn em làm trà sữa đi bán để trải nghiệm hè, chị mua ủng hộ bọn em đi chị.” Ôi thôi thế là số tôi cứ phải làm nhợn các cụ ạ, ăn tối xong rồi còn lốc 2 chai trà sữa ặc ặc, còn chửa biết có an toàn vệ sinh thực phẩm rì rì không :)))