Over and over I whisper your name. Over and over I kiss you again
TT&NT

9.6.23

Élégie





"Nhìn em đứng tựa

cửa sổ tuyệt cùng

anh mới hiểu ra, và uống

vực thẳm vô chừng


Tay em chìa

vào đêm chia ly

đuổi đi từ trong anh

những rời bỏ

cả em, cả anh


Cử chỉ ấy hình như muốn nói

lời vĩnh biệt mênh mông

biến anh thành gió

để rồi, rơi tuột xuống dòng sông"


đầu năm đọc Những cửa sổ - Baudelaire và nghĩ đến Mười bài cửa sổ "nhờ mi người ấy giống/một chút với chính mình" của Rilke [bài này tôi đọc trên blog của dịch giả cũng lâu lâu 5-7 năm trước rồi, lúc ấy tôi nhớ có vài khổ thơ cuối câu là "em" làm tôi nghĩ đến một bài hát, tự nhiên giai điệu vang lên thôi vì cứ đúng chữ "em" thì ngân cao độ; hôm nay đọc thì nhớ nó ở VIII]; giữa năm có booklet Mười bài cửa sổ; "cửa sổ được đưa trở lại cốt tuỷ thuần tuý nhất của nó: cửa sổ chính là sự rung động" [CVD]


ps. lần nào nhận sách theo đợt CTXB của Xuất bản Khác có booklet thì việc đầu tiên tôi làm là ngắm nghía sờ mó booklet, và đọc nó đã, xong xuôi rồi tính tiếp

6.6.23

thiên chức của hoa




một buổi sớm Chủ nhật đầu năm 1940, nhóm Xuân Thu gồm sáu người, hôm ấy ba người: Phạm Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh cùng nhau đến nhà Nguyễn Lương Ngọc, bàn nhau và lấy tên cho tập sách của nhóm là Xuân Thu nhã tập; với nghĩa xuân - thu là hai mùa đẹp nhất trong năm, chúng đi với nhau theo nhịp tuần hoàn của trời đất và nhã tập là tên tập sách với nghĩa nhóm bạn chúng ta hay luận với nhau về mấy chuẩn mực rất triết học thì tập sách phải mang được cái đẹp của trời đất, cái triết lý của đời, cái tầm văn hiến của nhân loại. Chiều cùng ngày, bốn người họ nói tên Xuân Thu nhã tập với hai người bạn còn lại trong nhóm là Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đỗ Cung thì được hai bạn bày tỏ đồng lòng với tên gọi ấy. Từ đấy tên nhóm là Xuân Thu nhã tập với sáu người cùng chung một tín ngưỡng, cùng thờ một đạo sáng tác - đồng thời cũng là tên tập sách của họ


khởi thuỷ tên nhóm Xuân Thu bắt đầu từ 1939; đến 1940 nhóm tên Xuân Thu nhã tập, họ cùng bàn về các bài tiểu luận và thơ văn từ cuối 1939-1940 rồi từ cuối 1941 đến cả năm 1942 rồi chuyển sang 1943 đưa dần lên báo Thanh Nghị. Xuân Thu nhã tập theo kế hoạch tháng Sáu năm 1942 ra mắt bạn đọc, tôi không thực sự biết bản in đầu chính xác tháng mấy thập niên 40 thế kỷ trước; quyển trong ảnh của tôi là lần in thứ hai 1991 [ở lần in này có thêm có 2 bài cuối sách trích từ hồi kí của Nguyễn Xuân Khoát và Nguyễn Xuân Sanh]


Xuân Thu nhã tập có những bài viết về quan niệm thẩm mỹ của nhóm, về thơ và tính nhạc trong thơ rất hay: Đoàn Phú Tứ viết trong Thanh khí: "xây đền thơ nhạc để điều hoà sự sống của tâm hồn"


trong bài Thơ ký tên Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh [trong đó chất thơ của NXS u huyền còn PVH thì chân phương hơn] viết: "Thi sĩ làm xong bài thơ có thể viết: bản đẹp chưa thành. Vì nó còn chờ tác giả thứ hai: người đọc [...] Người đọc phải là thi nhân tái tạo vũ trụ bài thơ tạo ra. Có thể khác nhau những vũ trụ ấy. Mà làm sao không khác nhau được. Mà cũng nên khác nhau. Nên một bài thơ có thể cảm ra nhiều cách; những khúc hợp tấu của Vô-Cùng [...] Có thể viết theo toán pháp: Thơ = Trong = Đẹp = Thật [...] Thơ là Đạo[...] vòng tương sinh: Đạo - Âm+Dương - Sáng tạo - Rung động - Thơ - Đạo [...] Là bài thơ, nếu bài văn chương (dù ở thể nào, loại nào) có chất Thơ; hàm súc cái rung động siêu thoát, phảng phất cái hương vị tuyệt vời... và giá trị nó định ở cái lượng hàm súc cùng cái phẩm phảng phất kia, truyền diễn nhịp nhàng trên cánh Nhạc, bồng tới chỗ Trong, Đẹp, Thật: Đạo trong nghệ thuật [...] nên độc giả, thi nhân, tình nhân, tín đồ đều cùng theo con đường trực giác, mới đạt "thơ", đắc đạo, cập tình [...] tiêu chuẩn về hình thức thơ là tính cách độc nhất và thi sĩ cũng chỉ tạo cái gì chỉ có một

Quan niệm "Thơ" ngụ cái ý cần định lại những giá trị bất diệt bằng những khuôn thước thật, trở lại cái can hệ của tinh thần. Đi về lõi sự vật. Tạo lại mình và vũ trụ: Bài-thơ-muôn-đời"



tôi luôn nghĩ, đào tạo người đọc cần thiết lắm; tôi là người chưa bao giờ bài một dòng sách nào trên thị trường sách vì có cầu khắc có cung thôi và cung tăng cao thì cầu sẽ tăng lượng tương ứng; người đọc phải luyện tập nhiều, đọc nhiều thì mới biết cái mình từng đọc có gì không, phải biết nó thì mới biết nó không hay nó có, phải có kinh nghiệm thì mới có kinh nghiệm về nó mà như thế thì phải có kinh nghiệm về nó thì mới có kinh nghiệm. Người đọc lúc ấy gọi là có nòi tình, có nòi tình thì mới cập tình được; và như vậy, thi sĩ văn sĩ cần người đọc lắm, không có người cảm cái họ viết họ kể thì họ không thành thi sĩ văn sĩ vì câu chuyện không sống, chỉ cần duy nhất một độc giả rung động thì "chiếc đàn ta văng vẳng nhạc muôn đời" rồi và "ta có thiên chức tự nhiên: Thiên chức của cây đàn. Thiên chức của đoá hoa" [Đoàn Phú Tứ]


trong Xuân Thu nhã tập có bài của Diệu Anh Đinh Gia Trinh: Đọc Xuân Thu nhã tập (II) in trên Thanh Nghị số 22 tháng Mười năm 1942, đây là bài viết đi sâu quan niệm Thơ của nhóm XTNT và về riêng thơ của Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh, về nhóm XTNT chung một tôn giáo. Chính bài viết này ngay lúc đọc đã khiến tôi có ý muốn đi lục Hoài vọng của lý trí của Đinh Gia Trinh trong nhà, tôi biết rõ quyển ấy dễ lục thôi vì ngày nào chả đập vào mắt tôi chồng sách phê bình nghiên cứu văn học; nhưng trái ngang là, ngay khi gấp sách, tôi lại muốn đọc lại Tây sương kí [Mái Tây] bởi chính ý niệm thi sĩ - thi nhân, thi sĩ nàng Thôi truyền lan và thi nhân chàng Trương hấp thụ 

[tuy nhiên, vừa mở Hoài vọng của lý trí ra xem, chắc là cũng sớm phải đọc thôi]



4.6.23

đời sống phòng khách




trong ảnh là ba quyển hài kịch Molière bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh và một quyển bản dịch Tuấn Đô Đoàn Phú Tứ - những tác phẩm dịch tuyệt vời. Chỉ cần đọc một vài hồi kịch của một vở hài kịch Molière thì sẽ hiểu chính những vở kịch này mới đúng Vở kịch con người mà Balzac đã bắt đầu và tiếp tục sau đó về Bourgeois [Nguyễn Văn Vĩnh dùng Trưởng-giả để trỏ thế giới bourgeois]. Molière dựng kịch trên cái nền linh hoạt, sôi nổi [cái sôi nổi ấy có phần công không nhỏ là sự xuất hiện của các nhân vật người hầu (thằng ở - con hầu) - những nhân vật lõi đời khiến các vở linh hoạt đáng kể] mà không thể nói nó xa các tư tưởng triết học. Chúng là bức tranh rộng lớn về triều đình và xã hội lúc ấy, hậu bán thế kỷ 17 đời sống phòng khách nảy nở [Anh chàng ghét đời là rõ nhất] và bốn thế kỷ sau những vở kịch của Molière sống bền bỉ và khoẻ mạnh, hiện giờ, nó vẫn đang đúng từ trong cốt lõi xã hội nhìn rộng ra; có thể nói không ngoa rằng, đúng trên mọi mặt trận phương diện [thí dụ, có những cái nghề Molière tuồng không tiếc đất, như nòi thầy thuốc (Bệnh tưởng) và cũng không chỉ nghề ấy mà "nghề gì là chẳng có tuồng" (gần đây có một truyện, nhạo các nghề cũng tất tay, chính là Cervantes với Tú tài thuỷ tinh, C trắng í)]


chú trọng hai người dịch Molière vì lẽ quá đúng. Tuấn Đô dịch Molière khiến người ta nghĩ đến cái hóm tinh quái sau này sẽ gặp ở Balzac, và tôi cứ nghĩ mãi sao Đoàn Phú Tứ lại không dịch Balzac cơ chứ. Tuấn Đô dịch kịch Molière với đúng bút pháp của nhà viết kịch [các chú thích đặc biệt tỉ mỉ và rất cần thiết], các từ dùng đích danh, xử lý không thể nào tốt hơn, nhất là đoạn "người ta" trong vở Thằng Tactuyf; hai bài viết giới thiệu cũng đặc biệt cung cấp nhiều thông tin, tôi trân trọng lắm, đây là lần thứ 2 tôi đọc quyển kịch Molière Tuấn Đô dịch, tôi đọc lại vì muốn nhìn Molière qua hai dịch giả tuyệt vời, nhìn đồng thời hai dịch giả trong một trường hài kịch. Quyển Thằng Tactuyf xuất bản năm 1974, qua mỗi trang lại thấy thêm trân trọng tâm huyết của người dịch để vào công việc. Nó hoàn toàn có thể dùng thẳng như kịch bản dựng vở vì có những chú thích của dịch giả là để dành cho việc í. Đôi lúc đọc sách xưa, không phải đôi lúc nữa, tôi hay tò mò thì cứ thẳng thắn nhận là nhiều khi-thường xuyên-luôn luôn tôi tự hỏi, con cháu hậu duệ của những người cự phách thế này giờ đã làm gì với di sản họ tiếp nhận, ngay cả kí ức được truyền lại; vì lâu rồi trong quyển Thiên thần nổi loạn do Tao Đàn làm, có dành một bài cuối sách về dịch giả Đoàn Phú Tứ, có nói ông dịch kịch Sáu nhân vật tìm tác giả nhưng chưa kịp in, vài năm sau Tao Đàn có làm Sáu nhân vật đi tìm tác giả nhưng người dịch khác. Quyển kịch Molière này tôi mua 14.02.2020 trong một lần hiếm hoi 20 năm đổ lại đây đi đến hiệu sách cũ; hôm í đi hiến máu và gom mấy việc nên mới ra khỏi nhà; đến giờ tôi vẫn nhớ tôi lấy nó ở giá nào, dù là lần đầu tiên và duy nhất đến hiệu sách ấy [có anh bạn gửi sách qua hiệu sách nên tôi tiện mua sách luôn], vẫn nhớ vì quyển sách gọi tôi nhưng phải ở lần thứ hai tôi vòng lại góc ấy xem sách tôi mới lấy nó ra để được mua nhiều, chỉ là đi mua sách tôi không thích mua ít, mua luôn thể thì tôi thấy mới bõ công tôi đi; lúc ấy làm sao tưởng tượng được chính hiệu sách ấy về sau lại trở thành đại diện một đơn vị xuất bản làm ra ba quyển bìa trắng trong ảnh


còn Nguyễn Văn Vĩnh dịch Molière thì hẳn người ta không thể không nghĩ đến kịch, mà chắc chắn là hài kịch, vì đọc nó người ta mường tượng ngay vở kịch đang diễn trước mắt, như là Nguyễn Văn Vĩnh dựng vở và sắm vai tuồng luôn [và đúng là từng có sự việc ấy, năm 1920, Nguyễn Văn Vĩnh tham gia đưa vở Bệnh tưởng lên sân khấu Nhà hát Lớn và sắm vai Lang Ế]; và chính trong ngôn ngữ của Nguyễn Văn Vĩnh thì tính nhạo báng của Molière mới hiển hiện trong ngôn ngữ; ngôn ngữ tính tượng hình tượng thanh nó đúng một cách rõ rành rành, tài thế "lấy văn ta dịch văn tây, chẳng qua là mượn một cái ước-thể của mình có sẵn, để mà tả những điều mình chưa tả bao giờ"; có lẽ chính thế mà các thông tin đã được nói rõ ngay khi mở sách, rằng: hài kịch của Molière tiên sinh soạn ra, Nguyễn Văn Vĩnh diễn quốc-âm


không nhắc đến người dịch khác, bởi lẽ rất đơn giản thôi, tôi thấy quá tuyệt rồi, mà như thế thì cần gì thêm nữa đâu. Tôi đặc biệt thích nhan đề Người biển lận; Tuấn Đô cũng dịch L'Avare lấy tên Lão hà tiện [cũng dịch Trưởng giả học làm sang] nhưng lão hà tiện thì không thể nào đúng với nhân vật Hạc-Công; chỉ có thể là Người biển-lận. Có thể nói, nếu vào người dịch khác, không phải Nguyễn Văn Vĩnh, không phải Tuấn Đô Đoàn Phú Tứ thì kịch Molière mang cái nhạo của hài kịch rất khác, có thể nó chỉ là hài kịch để đọc, chứ không thể diễn 


vở tôi thích nhất là Anh chàng ghét đời - người quyết rút ra khỏi cánh rừng [trong đó người với người là lang sói với nhau], ra khỏi một vực thẳm nơi thói xấu hoành hành. Vở kịch này có hai nhân vật chính đối trọng với nhau: cùng nhận thức nhưng hành động, thái độ khác nhau. Có những đặc tính con người mà Molière hay Balzac đã lột tả rất điển hình như tính hà tiện gian tham [đàn ông mà hà tiện bủn xỉn keo kiệt thì chỉ có nước than "giời hỡi"] thì ngoài nó, vở Anh chàng ghét đời còn là tính ghen của đàn ông [Đoàn Phú Tứ cũng dựng một vở kịch tên Ghen]. Một chi tiết rất hay trong Anh chàng ghét đời, nó cũng điển hình cho đời sống phòng khách, mà những người có thể viết văn, thích viết lách, lúc nào đấy thử đọc vở này; có một lời thần chú, đại ý: người phong nhã phải chế ngự được cái ngứa ngáy của viết lách, phải kiềm chế được cái thói hăm hở đem những trò chơi đùa đó ra khoe khang rầm rĩ và vì nôn nóng muốn phô trương tác phẩm, người ta dễ làm thành trò hề cho thiên hạ


với vở này, tôi vẫn chưa thoả lòng một cách thẳng thắn vỗ mặt cho băn khoăn: tại sao có những tinh thần ghét đời [lúc này thì tôi kệ mịe, chứ trước tôi hay lên cơn mèo muốn nhìn bất cứ ai hay gì, nói chung không biết đặt mắt mình giác quan mình vào nơi nào, tâm hồn như không chốn dung thân] ở mức bề trên đỉnh cao như thế mà họ lại bị thần tình ái trêu ngươi cho ngã vào chuyện yêu đương ái tình với những đối tượng là điển hình những gì họ ghét đời; ái tình lâm nguy mà câu chuyện tâm hồn đi kiếm tìm hình thức của nó cũng quá nan giải


có một lớp ở hồi thứ ba vở kịch, đoạn hai người phụ nữ đại diện cho đời sống phòng khách nói chuyển, tôi nghĩ ngàn đời tôi tởn phụ nữ: 

"đời người ta, có một thời cho những trò tình tứ, cũng có một thời thích hợp cho cái trò tiết hạnh đoan trang. Người ta có thể vì khôn ngoan, cam bề tiết hạnh, khi tuổi xuân đã kém màu tươi; như thế thì che đậy được cái cảnh duyên tôi đáng buồn [...]; tuổi già rồi sẽ đưa đến đủ mọi chuyện, ai cũng thừa biết là hai chục tuổi đầu mà làm trò tiết hạnh đoan trang thì chưa phải lúc"


ps. - tôi còn quay lại Nguyễn Văn Vĩnh dịch; hôm trước có đứa em bảo tôi là Người Lạ nên từ dùng cũng lạ; tôi bảo, từ ngữ dùng đúng mà lạ thì phải vinh danh ông Nguyễn Văn Vĩnh. Cũng trong mấy ngày đọc Molière, vô tình tôi nghe Nghìn trùng xa cách và chuyện tình Phạm Duy - Lệ Lan Alice; tôi liền nghĩ đến Molière lấy con gái của người tình cũ làm vợ 🙂



20.5.23

hồn lưng




hai quyển đọc gần đây trong Wings Classics - Tủ sách văn học kinh điển của nxb Kim Đồng [tủ này không phải đầu sách nào tôi cũng thích, nhưng một số lựa chọn tác giả như làn gió tươi mát giữa ngộp thở vì oi nóng các nhà ồ ạt làm trinh thám kinh dị, kinh điển gần đây, như H. P. Lovecraft, Poe, Henry James...]: một ở lâu đài thời Trung Cổ và một ở trang viên thế kỷ 19. Ban đầu tôi hứng thú đến với Chuyện ma ám ở trang viên Bly [dù đã xem phim rồi], vì Henry James mà, dù biết, đây lại chính là cái không đặc trưng của tác giả; điều duy nhất nhận ra: chính vì tính chất truyện ma khó nắm bắt của nó mà ta đọc nó trong thích thú; khó nắm bắt nên thích thú, cái này rất hiếm gặp ở dòng truyện kinh dị khi mà cái gây cấn, rùng rợn dẫn dắt ta đi rất nhanh; ở đây thì không, cách Henry James viết về cảm nhận tâm trạng của các nhân vật nhìn vào nhau, nó làm người đọc rợn người và nghĩ: có thể nào nhân vật nghĩ như vậy hay sao 


nhưng cuối cùng cái gây thích thú lại là câu chuyện Lâu đài Otranto; nó quá Shakespeare; đến mức trong suốt 2 tiếng đọc nó và khi gấp sách lại, chỉ lấy làm khoái nghĩ bụng: sao người Anh họ lại mê bi kịch thế chứ, họ xây được những bi kịch quá motif, đồng thời, cũng không motif nào giống motif nào trong cùng một motif. Horace Walpole xây dựng những nhân vật nam quá sức điên loạn [ngay cả cha đạo] và những người phụ nữ khiêm cung, thờ chồng lý tưởng đến mù quáng; vì điều này mà tôi đi đọc tiểu sử của tác giả và tòi ra chi tiết đời sống gắn bó tinh thần của ông với người mẹ; cũng chính vì thế, tôi lần mò đến The Mysterious Mother: A Tragedy, nỗi tò mò của tôi hết sức dễ hiểu mà, tragedy thôi 


còn Henry James thì Xuất bản Khác sắp rồi, những gì Henry James nhất. Cùng chờ đón 

16.5.23

lõm mắt




một buổi chiều nhãn rỗi có 55 phút trống, thế là nằm đọc sách, rồi ngủ lúc nào không hay. Mơ một đứa trẻ hình hài như bào thai có lõm mắt nhưng chưa hình mắt nhoẻn miệng cười với mình qua làn nước, mặt nó gần mắt nhìn của mình lắm; chợt nghĩ, mình đang soi gương nước à, sao mình chưa hình thành mắt thế này, không có mắt thì đọc sách làm sao chời ơi; rồi trong mơ mở mắt thấy mình nhìn mọi thứ bình thường; mình thả lỏng lại, cười với đứa bào thai ý và hỏi: tú không sinh con đâu, thế con tính làm con ai, tính đòi tú bế hả, nhà tú còn thêm đứa cháu nào không nhỉ; nó cứ nhảy bật bông trong làn nước và cười khoái lắm. Nó nhảy cuộn loi choi như bơi, khiến tú hoảng loạn vì thấy bụng mình quặn buốt từng cơn 


mở mắt nhìn trần nhà, nhìn con mèo và những sách vở xung quanh; cầm điện thoại thấy đến giờ phải xuống nhà rồi. Đờ đẫn ngồi dậy sờ vào chỗ mình nằm mát ẩm mồ hôi trong gió quạt, loạng choạng đi cầu thang xuống nhà, người hâm hấp nóng...

11.5.23

không nói [*]




hai bài viết rất hay về Katherine Mansfield ở đây: [hình như có thể theo đấy mà đặt sách, đừng hỏi tôi là mua ở đâu, tôi trả lời có khi lại không tìm ra chỗ để mua]

https://xuatbankhac.com/blog/suong-mu/?mibextid=Zxz2cZ

https://xuatbankhac.com/blog/mat-na-mai-khong-roi/?mibextid=Zxz2cZ


đầu mùa hè 2020 tôi có The collected stories of Katherine Mansfield trong nhà, cũng từ đấy, quyển sách trở thành sách đầu giường đúng nghĩa với tôi. Gối nằm một bên giường, nó cùng khoảng 7-8 quyển khác nằm bên còn lại [giờ có lẽ khoảng 20 quyển] nhưng nó chiếm vị trí đặc biệt trong sự đọc trường kỳ và có tí thâm niên của tôi: bởi tại thời điểm đó, Katherine Mansfield là một cái tên lạ với tôi, môi trường sách vở tôi quan tâm cũng không ai nói với tôi về nhà văn này. Sau khi đọc những trang introduction, headnotes, suggestions for further reading và biết người phụ nữ này cũng chỉ sống hơn 34 năm, cỡ Simone Weil, thời điểm ấy tôi cũng hơn 34 tuổi, tôi cũng là người sinh tháng 10 như bà ấy, tôi còn lạc trôi đến ý nghĩ, năm ngoái leo núi chết hụt thì năm nay mày có chết không tú; và tôi giở hú hoạ một trang, và trúng truyện Marriage à la Mode, tôi cứ tủm tỉm mãi với mình, rằng một người sợ hôn nhân con cái như mình mà sao mở hú hoạ quyển sách cũng vào marriage, mà lại còn à la mode mới đau :))) nhưng ngay khi đọc hết truyện hú hoạ ấy, tôi nghĩ: mình đọc nhà văn này, thời gian của mình để đọc, cho một tác giả tên tuổi, kinh điển hay gì gì hay lạ lẫm thì cũng có sao, nó đến tay mình thì mình đọc, mình chẳng đọc chán vạn ba lăng nhăng bao thời gian đấy thôi; và ngay lúc ấy tôi đã nghĩ, nếu để nhìn một cây viết nữ chất Ăng-lê thì tôi nhìn Katherine Mansfield, chứ không Virginia Woolf. Tính đến giờ, quyển sách ố vàng cũng phải, giấy của nó rất mềm và dai, cầm rất thích, chắc do động đến nhiều suốt thời gian qua, đây cũng là hình thức một quyển sách mà tôi luôn thích, thích hơn nữa nếu mặt tiền chỉ có các thông tin cơ bản phải có


năm ấy, Katherine Mansfield mới tinh với tôi, và cũng là một khám phá [cùng George Eliot] tại thời điểm đó, lúc ấy, tôi nghĩ: chắc chắn chưa từng có dấu vết Katherine Mansfield trong tiếng Việt, vì cỡ này nếu có thì người ta phải làm gì đó rồi chứ. Tôi sai :). Một người bạn sách đã cung cấp dấu vết [có vẻ việc không để lại dấu vết là bất khả, bản thân mong muốn ấy của Mansfield cũng có được đâu], The Fly [Con ruồi] từng được dịch trong tập Hoa lạ do nhà Đời Nay in năm 1944 ở Hanoi tái bản năm 1970 tại Saigon nhà in Huyền Trân; khoảng những năm 90, At the Bay [Vịnh Lưỡi Liềm] và The Garden Party [Tiệc hoa viên] 2 truyện ngắn được dịch trong tập Hoa thơm cỏ lạ do An Tiêm in ở Pháp. Nỗi băn khoăn của tôi đã làm người bạn sách của mình sực nhớ ra trong nhà có mấy tập truyện chọn lọc của nữ danh sĩ ngoại quốc và anh ấy chụp gửi cho, nhờ thế còn tòi ra Khái Hưng dịch Hai người thợ giầy của Stacy Aumonier; cũng người bạn ấy gửi cho tôi đọc Hoa thơm cỏ lạ, đấy là một tập tuyển truyện ngắn rất hay


và giờ, Katherine Mansfield đã xuất hiện với diện mạo đầy đủ hơn: Tiệc vườn và Ở nhà trọ Đức, và sẽ còn tiếp nữa. Đọc truyện ngắn của Mansfield điều cảm thấy đầu tiên là con mắt quan sát tinh quái, miêu tả sắc như đọc một cái người ta thấy luôn không khí của truyện; nhưng chính tính chất tinh quái ấy, cuối mỗi truyện luôn cho người đọc cảm giác hồ nghi, hồ nghi cái ta đọc như ta đi ta nhìn qua sương [quá đảo quá sương mù] như đứng trước bí ẩn và lời tiên tri vậy. Chính thế càng khiến ta đọc, vì nếu một nhà văn viết không mang đến một không khí tiên tri thì liệu có đáng đọc, nhất là khi nhìn lại nhưng gì đã đọc của Mansfield tôi hay nghĩ: những truyện không truyện, chi tiết không hề to [không tảng mảng khối] mảnh cắn chỉ mà có thể viết quái như thế, thu hút đọc như thế, thì con người này biên độ rộng thế nào, thật khó chịu, không dễ dàng gì với con người bên ngoài trang viết


tôi thích tập Tiệc vườn hơn, tôi đương nhiên biết điều ấy, dù rất nhiều nhà văn tôi thích nhất của họ là những gì đầu tay, thuở bình minh, và nếu thế thì ở đây tôi phải thích Ở nhà trọ Đức, nhưng không; có lẽ do ấn tượng về một gì đó mong manh bảng lảng như thiên thần vụt hiện mà Tiệc hoa viên để lại [giờ đây truyện có tên Tiệc vườn], mấy năm trước, thời gian đầu tôi làm quen Katherine Mansfield, tôi nhớ mãi khung cảnh và câu thoại khép lại The Garden Party [ở ảnh comment]; một người không tìm thấy niềm vui đọc ở ngôn ngữ khác như tôi, nhớ được như in cái gì không ở ngôn ngữ mẹ đẻ, hiếm hoi lắm, hoạ hoằn thôi. Tập Tiệc vườn có thể xem là bông hoa trong giai đoạn viết đỉnh cao của Katherine Mansfield; Ở nhà trọ Đức là tập đầu tay [sao lại có thể tiên tri trước đời sống pension như thế chứ], nếu đọc Tiệc vườn trước và Ở nhà trọ Đức sau thì sẽ nhận ra độ chênh nhiều [tôi đang cố gắng gợi ý với người mới là đọc Tiệc vườn trước đấy], nhưng cũng nhận ra giọng mỉa mai, giễu nhại đến thất thường đỏng đảnh ở giai đoạn đầu đã được tiết chế và thay bằng tinh quái, khó đoán định ở Tiệc vườn; nói vậy, chính những truyện có phần lạc quẻ, có phần nằm ngoài pension lại khiến tôi chú ý [nửa sau tập Ở nhà trọ Đức, ở pension tôi nghĩ đến Núi thần Thomas Mann] và nó khiến tôi nhìn hôn nhân con cái bằng con mắt của những phụ nữ đang trong hôn nhân con cái sinh đẻ, dẫu tôi có thể nói, không bao giờ nhìn đời sống ấy bằng đôi con mắt nhược thị của mình :)


The Doves' Nest, Katherine Mansfield đề tặng Walter de la Mare, chính nhờ có quyển collected kia, 3 năm trước tôi nhớ ra trong nhà có một quyển Tuyển tập truyện thiếu nhi của Walter de la Mare, là cả một khám phá lớn vì may quá nó không mỏng như lưỡi mèo, nó dày cỡ 500 trang, may quá vừng ơi mở ra :)))



[*] tên văn bản Không nói, tôi nảy ra ngay khi đọc xong Con gái ông đại tá trong tập Tiệc vườn, tự nhiên nghĩ sao làm vậy thôi


ps. các bạn hỏi tôi mua Ung thư ở đâu, quyển C màu trắng C màu đỏ ở đâu, Le Spleen de Paris ở đâu... tôi trả lời ở Hiệu sách Hộp, tôi cũng không biết các bạn có tìm ra không. Nhưng cách nhàn nhất là đăng ký chương trình xuất bản của họ, rồi cứ thế nhận sách không bị lỡ quyển nào, chỉ việc đọc, thế là nhàn



4.5.23

kì ngộ [*]




Hai C [một trắng, một đỏ] là các truyện ngắn của Cervantes, trong đó đỏ có một nửa của Hoffmann. Cũng có hai điều rất rõ ràng. 1, Cervantes truyện ngắn và Cervantes Don Quijote là hai Cervantes khác hẳn nhau, dù rất thi thoảng sẽ gặp lại cách nói của Cervantes nhưng cũng khó lòng nhận ra Cervantes truyện ngắn lại cũng chính là Cervantes Don Quijote. 2, quyển đỏ là câu chuyện về con chó Berganza nói tiếng người; Cervantes viết về hai con chó nói tiếng người, con Berganza kể cho con Scipion nghe về đời nó trong một đêm, và một con người ngồi nghe lỏm được câu chuyện í; hai thế kỷ sau, thế kỷ 18 Hoffmann viết tiếp câu chuyện con chó Berganza, khác là, con Berganza nói tiếng người trò chuyện với một con người [những trang cuối cuộc trò chuyện này sẽ làm nở ra rất nhiều gợi ý đọc]; nếu đọc câu chuyện con chó Berganza của Hoffmann thì chắc chắn sẽ nghĩ ngay đến con chó Berganza của Cervantes, nhưng ở chiều ngược lại thì không phải ai cũng biết hoá ra hai thế kỷ sau, truyện con chó Berganza được viết phần tiếp theo, tiếc là con Scipion ở thế kỷ 16 cũng như 18 đều không có cơ hội kể về đời mình và tài là truyện về con chó Berganza với Berganza là nhân vật chính thực chất là do Cervantes nối dài một nhánh trong một câu chuyện khác, nên nó lại tên là Đám cưới giả 🙂


Cervantes và Hoffmann trong cùng một quyển sách, cùng về nhân vật chính là con chó nói tiếng người Berganza, đúng là kì ngộ. Sao có thể chứ. Cervantes thì quá "làm gương" bài học răn dạy [cả C trắng chính là thế, nó đúng cho giờ đây luôn, hẳn có thể nhận định nó chưa sai suốt những thế kỷ đã qua] dù thực ra đấy lại là một tinh thần rất nhẹ, cái nhẹ của Tây Ban Nha Tú tài thuỷ tinh làm nhớ đến không khí Ý Nam tước trên cây của Italo Calvino. Còn Hoffmann lại là cả một thế giới của các nhạc sĩ, kịch nghệ, những người Lãng mạn Đức [Hoffmann và La Motte-Fouqué đều tạo ra những người con gái mang tâm hồn của các yếu tố tự nhiên. Hoffmann tạo ra Serpentina người con gái của kỳ nhông-vị hoả thần và rắn xanh-con gái của hoa huệ, mộc nữ; hoả và mộc. Còn La Motte-Fouqué tạo ra Ondine, người con gái, tâm hồn của nước. Và giao ước tâm hồn họ đều là tình yêu, tình yêu với và của một con người. ôi những người Lãng mạn Đức] như bông hoa xanh Novalis [đoạn Berganza nói về những người phụ nữ thông thái không có trái tim lẫn tâm hồn, những kẻ "có đốm"], thế giới liêu trai cổ tích ma mị, thế giới đêm của đồ chơi thức dậy [Chàng cắn hồ đào và Vua Chuột, thế giới ấy hẳn ai đọc Andersen cũng cảm thấy hết sức quen thuộc, còn một người nữa, đó là Dacia Maraini với đúng tên truyện Thế giới đêm của đồ chơi; những nhà văn viết thế giới cổ tích, dường như "đêm" là tất yếu]


Berganza của Cervantes tất nhiên tạo niềm cảm hứng để Hoffmann viết tiếp về đời con chó Berganza, nhưng không chỉ vậy. Chiếc âu vàng của Hoffmann hẳn cũng làm ta nghĩ đến Tú tài thuỷ tinh, những tú tài ở hai truyện đều trúng ngải tình, ở Cervantes là một loại bùa yêu trong quả mộc của hảo độc nữ khiến chàng tú tài hoá chàng tú tài thuỷ tinh nghĩ mình mong manh như thuỷ tinh chực vỡ, còn ở Hoffmann là những quyến dụ của các nàng rắn và các chàng tú tài trúng chài ngải không chỉ của "một thế giới" nên mới bị nhốt vào lọ thuỷ tinh đậy kín [ở trong đó như một thế giới huyễn tưởng, điều lặp lại trong đầu chàng tú tài Anselmus là lời nàng Serpentina nói: hãy tin, hãy yêu và hy vọng]


nhưng Hoffmann, sao lại cứ cho các nhân vật chính của mình bị lập bản đồ chiêm tinh với lá số tử vi, trước khi được là người được chọn thì họ bị "các thày" xem lá số tử vi và khi nhìn vào đó, ừ đúng thiên định thì vừng ơi mở ra, tức là được chọn rồi thì họ mới được chọn cho một sứ mệnh nào đó, làm hay không làm gì đó. Từ hôm đọc mấy truyện của Hoffmann, cứ đang làm gì đó, tôi lại lẩm bẩm: là xem chiêm tinh trước xem lá số tử vi trước ư... có những điều sức mạnh trí tuệ không thể hiểu và lý giải. Như lời con Berganza: họ [những người tô điểm bản thân bằng hào nhoáng thơ ca, ăn diện lộng lẫy, những phụ nữ thông thái rởm, những kẻ "có đốm" lấp lánh màu sắc như tắc kè hoa từ trong ra ngoài...] không thiếu tâm hồn và tinh thần. "Nhưng bông hoa xanh sẽ tự hé mở tràng hoa của nó cho những ai được ân sủng." Hoffmann nói ông giống như lũ trẻ sinh ra vào Chủ nhật, nhìn thấy những điều người khác không nhìn thấy được và "nền tảng của chiếc thang bắc lên trời mà người ta muốn trèo lên, vươn tới những miền cao cả hơn phải bám chắc vào cuộc sống để mỗi người đọc đều muốn trèo lên theo. Và khi con người trèo lên cao, cao hơn, cao hơn nữa và thấy mình đang ở trong một vương quốc kỳ diệu, huyễn tưởng, con người sẽ tin rằng cả vương quốc này cũng vẫn thuộc vào cuộc sống của mình và nó lại là cái phần kì diệu, tuyệt vời nhất của cuộc sống", không trách Balzac ví Hoffmann là "nhà ảo thuật phương Đông"


Cervantes tôi thích truyện Lão già ghen ở Estramadoure, không biết sao tôi lại hình dung bối cảnh của nó ở Ả Rập [trong truyện Rinconete và Cortadillo tôi có thích một câu, đại ý: chẳng cái lá nào rung mà không có ý chí của Chúa; tôi thích ở đây là từ "ý chí", từ này cũng xuất hiện đôi ba lần nữa trong C trắng với nghĩa tương tự, nó dùng với nghĩa rộng hơn nghĩa trước giờ được dùng], còn Hoffmann tôi lại thích những chi tiết quái gở quỷ dị của Zaches tí hon mệnh danh Zinnober, nhất là những chi tiết về vẻ ngoài, biểu cảm của Zinnober; có lẽ tôi đã xây dựng cho mình một sinh vật trong tưởng tượng tên Zinnober quá sống động, đến nông nỗi, băng qua ghét bỏ, nó khiến tôi thích thú quan sát [tôi thuộc dạng nếu làm công việc gì đó điều tra theo dõi truy vết tích người khác, thì khả năng cao là tôi rất dễ yêu cái đối tượng mà mình lần theo, để dễ làm việc thì phải hiểu, muốn hiểu thì dễ nhập làm một với người ta 'nhắm mắt nếu ta là họ thì ta sẽ ta sẽ etc.' nên là yêu lúc nào không hay  :))))]


ps. các lỗi trong Chiếc âu vàng bản Đông Tây đã được sửa chữa trong bản Chàng cắn hồ đào của Nhã Nam [bản này có Chiếc âu vàng, Zinnober và Chàng cắn hồ đào] tuy nhiên ở tay gấp đã cho Hoffmann lúc sinh 1766 lúc sinh 1776. 

[*] về "kì ngộ", là nhân Xù nói chuyện hỏi lấy tên Hội quán cờ hay Kỳ hội quán hay Kỳ ngộ hội quán, tôi buột ra miệng luôn "Ngẫm duyên kì ngộ xưa nay/Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi - Trương" và trêu nó "kỳ ngộ" là duyên kì ngộ à, hôm nay chị sẽ dùng từ này. Thế nên, tôi dùng]