Over and over I whisper your name. Over and over I kiss you again
TT&NT

Hiển thị các bài đăng có nhãn Haruki Murakami. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Haruki Murakami. Hiển thị tất cả bài đăng

28.6.24

thư viện

 



tôi luôn thích truyện ngắn của Haruki hơn tiểu thuyết, những tiểu thuyết nhỏ/ngắn hơn những quyển đồ sộ, quyển lớn thích nhất có lẽ là Kafka bên bờ biển, hơn là Biên niên ký chim vặn dây cót; còn trong tất tật Haruki tôi từng đọc, thích nhất lại là Ngầm, chính ở Ngầm hiện thực, tôi được Haruki tiết lộ con đường đi và nhớ mê cung kỳ ảo ông dựng nên. Trong mê cung, cái khó chính là việc nếu không đi đến tận cùng thì sẽ không thể biết con đường mình đã đi là đúng hay sai, là dẫn ra hay đi vào cùng lộ; và khi đến cùng lộ, nhận ra sai thì cũng là lúc mọi sự đã muộn; một nan đề mê cung rất hay 


hôm qua đọc Thư viện kỳ lạ, đây là một truyện ngắn thôi, vẫn là đi xuống tầng hầm lòng đất, vẫn là Người Cừu, cô gái xinh đẹp... những chi tiết hay lặp lại, nhưng được mở ra từ một thư viện và điểm cùng là một phòng giam để đọc sách; nghĩ mình nhớ là nó in chót ở tập truyện ngắn nào đó của Haruki rồi, tập đó cũng có truyện gì Cừu Cừu [sáng nay bắc ghế đi tìm, ngay phát đầu trúng luôn, Ngày đẹp trời để xem Kangaroo]. Giờ đây truyện ngắn được in thành một quyển sách mỏng như picture book, minh hoạ bởi hoạ sĩ tự do Đức Kat Menschik - nữ hoạ sĩ thường minh hoạ cho các tác phẩm của Haruki ở thị trường sách Đức 


8.11.15

Điểm mù chí tử


"liệu chúng ta có khả năng hiểu tường tận về người khác không? Cho dù yêu người đó sâu đậm đến mấy"
Không thể, tất nhiên là không, luôn luôn tồn tại điểm mù, điểm mù chí tử. "Nếu thực sự mong muốn nhìn thấu người khác thì chỉ còn cách là nhìn thật thẳng, thật sâu vào chính con người mình" mà điều này thì khó tới mức như một thứ cấm kỵ, ta không biết ta đích thực là ai, ta đều sống và mang theo bên mình những điểm mù gần giống như nhau.
7 truyện ngắn trong tập truyện Những người đàn ông không có đàn bà của Haruki Murakami trong từng câu chuyện vẫn chứa nhiều chi tiết tưởng như rời rạc, tưởng như kỳ quái mà khớp vào nhau vừa vặn như một chỉnh thể thống nhất, không còn đậm yếu tố siêu thực thứ vốn dĩ vẫn được xem như phong cách của Murakami nhưng với giọng văn bình tĩnh, sức đào bới sâu cùng vào bản chất con người tiếp tục tấn công vào người đọc những cú đòn hiểm hóc. Buộc ta phải đối diện với câu hỏi ta có hiểu về kẻ khác không, kẻ mà ta yêu, kẻ mà ta những tưởng rằng mình hiểu mình biết tường tận, cũng như việc ta có hiểu có biết về chính ta chăng.
Tập truyện ngắn này không có mục lục (cũng là lần đầu Nhã Nam trích chéo tiểu sử tác giả theo một hướng khác). Một người thích HM như tôi, không để ý tới giới thiệu sách, cứ HM là khuân về nhà đọc, mở ra không thấy mục lục, đọc hết truyện đầu tiên và sang một trang của truyện thứ hai mới vỡ ra rằng hóa ra là truyện ngắn, ta vừa đọc hết một truyện ngắn chứ không phải một chương. Sức quyến dụ của HM ở tập truyện này chính ở chỗ những câu chuyện riêng biệt nhưng rất hài hòa trong cái giằng xé của vỏ bọc bình yên êm ả tĩnh lặng.
Tôi thích nhất truyện ngắn Scheherazade, đặc trưng những nhân vật nữ của HM. Truyện Samsa đang yêu có phong vị Kafka trong Hóa thân. Kino là truyện ngắn nhiều HM phi lý (nói như các bạn là chả hiểu gì tự nhiên mèo biến mất rắn xuất hiện và bao nhiêu thứ bỏ ngỏ, bao nhiêu câu hỏi vân vân và vân vân; tôi thích HM cũng một phần ở điểm này hehe). Drive my car và Yesterday (tên 2 ca khúc của The Beatles, "chẳng phải John thích những thứ vô nghĩa sao"   lều lều) là hơi thở HM lãng mạn suy tư hồi ức nhất.
Bài viết ngắn ở bìa sau sách gọn ghẽ và rất đủ (chính xác là tôi thích nhan đề và cách thả câu kết)
"Bình tĩnh đến kỳ lạ
Dù trong sách này có người biếng ăn, bị không khí rút đi từng calo và cơ thịt hằng ngày cho đến khi chết một cách xương xẩu;
dù có người đi công tác về sớm xô cửa và nhìn thẳng ngay vào mặt vợ mình đang trên một người đàn ông;
dù có người đã dành suốt những ngày hè đi học chỉ để đột nhập vào nhà người ta và hít ngửi nách áo của họ...
thì bầu không khí chung của cả cuốn sách vẫn bình tĩnh đến kỳ lạ.
Nó phù hợp để đọc cả với những người vốn vẫn tránh Murakami vì không quen với thế giới siêu thực của ông. Hoàn toàn không có bóng dáng một cơn mưa cá, mưa đỉa, những giấc mơ nguyên tội hay thậm chí một cái giếng.
Đây là những câu chuyện đời thành đô, với những suy tư thị dân mà ai cũng có nhưng ít khi tìm được cách diễn đạt thành lời.
Cả bảy truyện đều như thế, rất bình tĩnh, dù rằng không mấy bình yên"

ps: it's something I do "something" for you, "something" between "nhận nhóa" and "nhìn nhóe" 

31.7.15

So, you think you can tell Heaven from Hell



Ngầm của Haruki Murakami được xếp vào thể loại phi hư cấu, tác phẩm báo chí xoay quanh cuộc tấn công bằng vũ khí sinh học sarin {sarin là hơi độc thần kinh do các nhà khoa học Đức chế ra những năm 1930 trong kế hoạch chuẩn bị Thế chiến II của Adolf Hitler. Những năm 1980 Iraq đã dùng nó trong chiến tranh chống Iran và chống người Kurd, sarin độc gấp 26 lần xyanua, một giọt sarin cỡ đầu kim cũng đủ giết chết một người} của giáo phái Aum nhắm vào thường dân, hành khách của hệ thống điện ngầm Tokyo tháng 3/1995 làm 12 người tử vong, hàng ngàn người bị thương, thương tổn vĩnh viễn. Nhưng nếu đọc trọn vẹn thì nó mang nhiều tính văn chương dù Murakami dùng chính năng lực tiểu thuyết gia của mình tiến hành loạt phỏng vấn cả nạn nhân, cả các thành viên của giáo phái Aum, như hai chiến tuyến trái ngược nhau với một cái nhìn khách quan nhất để đem lại cho người đọc, và chính cả bản thân Murakami nữa (tại thời điểm này ông vừa quay lại Nhật Bản sau một thời gian dài sống ở nước ngoài) chân dung về "cái ở tầng ngầm, tầng sâu" trong xã hội thịnh vượng Nhật Bản, cũng như đằng sau cuộc sống bình lặng của từng cá nhân đất nước này, một đất nước vốn được ca ngợi và biết đến với sự phát triển tột bậc văn minh và được xem như một cường quốc đi trước thời đại
Đúng như Murakami có thú nhận trong tác phẩm này, vào mỗi cuộc phỏng vấn, ông đều cố gắng khai thác lai lịch, tung tích của người được phỏng vấn, ông tự nhận đây là căn bệnh của người viết tiểu thuyết, luôn muốn có một "bộ mặt" cụ thể của người được nói đến, không quan tâm tới bức tranh toàn cục mà muốn chú trọng vào tính chất người cụ thể, không thể bị thu nhỏ của mỗi cá nhân.
Phần 1 của Ngầm là tập hợp 34 cuộc phỏng vấn gồm cả nhân viên nhà ga, hành khách, thân nhân của những nạn nhân đã tử vong trong thảm kịch và cả bác sĩ, tiến sĩ góp phần dọn dẹp hậu quả thảm kịch sarin gây ra.
Khi nhìn lại thảm kịch này phần lớn những người được phỏng vấn vẫn còn chịu hậu quả của việc nhiễm độc sarin: tâm lý sợ hãi (đi bộ cũng cảm thấy bất an, không dám đi lộ trình cũ, không thích bị hỏi về di chứng của thảm kịch sarin), trí nhớ giảm, đau đầu, nhanh bị mệt, thị lực kém đi nhiều, và tất nhiên, sung sướng vì mình đã sống nhưng cũng cảm thấy đáng tiếc cho những nạn nhân khác không qua khỏi được...nhưng mỗi người lại có một câu chuyện và suy nghĩ hoàn toàn cá nhân, ngay cả việc họ nghĩ sao về những kẻ phải chịu trách nhiệm cho thảm kịch này. Trong các cuộc phỏng vấn ở phần này, dù là thảm kịch nhưng có thể thấy sức sống bền bỉ và lạc quan của người Nhật, họ tin vào một thứ tâm linh vũ trụ giống như xưa nay chưa được bàn tay số mệnh ban cho điều gì, cũng không trừng phạt gì, chỉ là không gì hết, sống một cuộc đời tẻ nhạt và bỗng dưng có một đều gì như thế này đã xảy ra: "chỉ vì xe bus đi sớm 2 phút nên tôi đã bắt chuyến tàu khác", "hôm đó tôi đã lên toa 1 đầu tàu thay vì toa 2 như mọi khi, nếu giống mọi khi thì thuận chiều gió, có thể tôi đã nhiễm độc nhiều hơn" hay cuộc phỏng vấn ở trang 70 và 78 như là một sự thay đổi lớn trong cách sống khi một phụ nữ nhiễm độc sarin đã không còn cãi nhau với chồng nữa, và cô coi đây như một lực tác động tâm lý "giống như biết đâu đây sẽ là lần cuối ta ở bên nhau" còn một người đàn ông khác thì ngay sau thảm kịch kia đã quyết định ly hôn vì vốn dĩ không hạnh phúc từ lâu rồi, việc trúng độc sarin chỉ như là giọt nước tràn ly, con lừa ngã quỵ chỉ vì thêm một tấm áo vắt lên lưng.
Sự việc tính đến giờ đã lùi xa hơn 20 năm nên khi đọc các nạn nhân tường thuật lại thảm kịch này diễn ra ở hệ thống điện ngầm Tokyo người đọc sẽ không tránh khỏi sửng sốt khi hệ thống ứng cứu thảm họa ở Nhật Bản lại đáng thất vọng như thế: xe cứu thương đợi hàng giờ đồng hồ, bệnh viện, trung tâm y tế ngơ ngác không có phác đồ điều trị hay xử lý tạm thời, và tôi tin rằng truyền thông lúc nào cũng vậy, chỉ nhằm làm hoang mang thêm, sự hoang mang vượt trên mục đích mang đến hay phổ cập thông tin tức thời, truyền hình chiếu lên những cái quá ư hạn hẹp và khi đưa tới công chúng thì nó đem đến một cái nhìn không toàn cảnh và thiên lệch (Truyền hình mới đáng sợ làm sao). Đúng như tiến sĩ Nobuo Yanagisawa (hiệu trưởng trường Đại học Y, Tokyo), một người được phỏng vấn trong phần này có nhận xét:”Ở Nhật không có hệ thống xử lý thảm họa lớn một cách tức thời và hiệu quả”. Thảm kịch sarin 20 năm trước ở Nhật Bản đã đánh vào suy nghĩ của rất nhiều người, không chỉ người Nhật, rằng Nhật Bản là một nơi tuyệt đối an toàn, rất nhiều người được phỏng vấn đã đặt ra câu hỏi, cảnh sát Nhật Bản tại sao không đi sâu vào vụ Matsumoto hơn nữa, một vụ rải hơi độc sarin diễn ra trước đó không lâu? Hay ngay sau vụ Matsumoto thì các bệnh viện đáng ra phải được chuẩn bị cho tình huống nhiễm độc sarin là như thế nào? Nếu mọi công tác được tiến hành tốt hơn thì chắc chắn các bệnh viện và trung tâm y tế đã không rơi vào tình trạng trang bị nghèo nàn đến độ thành ra trò cười (bệnh nhân đứng chờ hàng giờ, ngay cả khi đã đi vào trạng thái hôn mê…), hay có thể đã giảm thiểu thiệt hại về người đáng kể nếu ngay khi phát hiện sự việc lạ khiến nhiều người cảm thấy ốm, mệt thậm chí ngất khi ngửi phải mùi lạ trên toa tàu mà tuyến tàu được ngừng hoạt động luôn, tiến hành sơ tán khỏi tầng hầm….
Chân dung người Nhật quá ư lặng lẽ, co cụm, cô đơn và xa cách. Như Kiyoka Izumi 26 tuổi đi tuyến Chiyoda, được phỏng vấn có nói, tuyến điện ngầm của cô “trước bộ thương mại và công nghiệp, có những người sùi bọt mép. Một nửa con đường rải nhựa đó là địa ngục tuyệt đối. Nhưng ở nửa bên kia người ta vẫn rảo bộ đi làm như thường lệ. Đang săn sóc một ai đó, tôi nhìn lên thì thấy người qua đường liếc về phía chúng tôi với vẻ như hỏi:”Ở đó xảy ra chuyện quỷ gì thế kia?” nhưng không ai lại gần. Tựa hồ chúng tôi là một thế giới tách biệt. Không ai dừng bước. Tất cả họ đều nghĩ: “Chẳng dính dáng gì đến ta”
Hay như ông Masanori Okuyama 42 tuổi đi tuyến Hibiya “khi tôi ra ngoài, ở đằng trước ga Kodemmacho, nhất định là cả một khối phố kia đang trong trạng thái không bình thường nhưng xung quanh chúng tôi, thế giới vẫn tiếp diễn như xưa nay vậy. Xe cộ vẫn chạy qua bình thường”
Hay như một người được phỏng vấn có nói, tất cả đều ngửi thấy mùi rất lạ nhưng mọi người quá lặng lẽ, ai cũng lặng lẽ coi đó là việc không phải của mình
Tất nhiên chân dung ấy là số đông nhưng không phải tất cả, vẫn có những người vì giúp người mà cũng thành nạn nhân nhiễm độc, những nhân viên nhà ga tận tụy không tránh khỏi việc nhiễm độc quá nặng mà tử vong…
Trong phần này tôi đặc biệt cảm động với 4 cuộc phỏng vấn: Tatsuo Akashi (37 tuổi) anh trai của người bị thương nặng Shizuko Akashi; Shizuko Akashi (thời điểm được phỏng vấn cô bắt đầu có thể cử động được một chút rất ít, ngồi xe lăn di chuyển quanh phòng bệnh và có thể nói được ít và không rõ ràng) và cuộc phỏng vấn Yoshiko Wada, vợ góa của anh Eiji Wada; Kichiro Wada và Sanae Wada, bố mẹ của Eiji Wada đã chết. Dường như cả 4 cuộc phỏng vấn này khiến không chỉ Murakami mà chính tôi cũng quay trở lại câu hỏi Lớn: Sống có nghĩa là gì? Sống là như thế nào? Liệu ta có sức mạnh ý chí để tiếp tục sống ngoan cường như cô gái Shizuko Akashi kia không? Tình cảm của ta, bàn tay ta có đủ ấm để tiếp sức mạnh cho một ai đó? Ta đã yêu ai đó đủ chưa? Khi không còn hiện hữu thì dần dần mọi thứ sẽ phai nhạt đi, đúng không?
Phần 2 của Ngầm chủ yếu dành cho các cuộc phỏng vấn những người đã từng nhập giáo phái Aum, hay vẫn đang ở trong giáo phái Aum hoặc đã trở về một cuộc sống thế tục bình thường. Tôi đặc biệt thích phần này vì tìm thấy rất nhiều hình ảnh của mình trong đó. Bản thân tôi rất dễ bị thu hút bởi các chủ đề tôn giáo, đức tin, từng có lúc tôi cảm thấy mình đặc biệt bị thu hút bởi thuyết mạt thế nên gần như tôi có thể hiểu phần nào đó về những con người trong cuộc phỏng vấn này. Phần lớn những kẻ nhận nhiệm vụ thả sarin đều là những cá nhân có thể xem như kiệt xuất trong xã hội, thông qua hình ảnh những cá nhân được phỏng vấn, ta có cái nhìn khái quát những con người này, tiến trình gia nhập giáo phái, chân dung Thủ Lĩnh Shoko Asahara, truy cầu tôn giáo của họ, quan điểm của họ về việc Aum đánh hơi độc hệ thống tàu điện ngầm Tokyo…
Phần lớn họ là những cá nhân yếu đuối, họ đối diện với nỗi cô độc khi làm một cá nhân biệt lập trong thế giới với trạng thái nhiều suy tư, không tìm thấy sự thỏa mãn khi sống giữa xã hội nên họ cho rằng khi mình xuất gia, gia nhập giáo phái Aum, có thủ lĩnh, họ giao phó cái tôi của mình cho giáo phái nhằm tìm kiếm một điều gì đó bên trong họ mà chính bản thân họ chỉ cảm thấy mà không chỉ đích danh được nó là điều gì, cái gì. Họ có nhiều bạn bè hoặc không, nhưng phần lớn đều thích nghi với xã hội bằng một cái tôi khác, vẫn là cuộc sống học tập đi làm và quây quần bên gia đình nhưng khi về đến phòng riêng hoặc khi ở một mình họ bị một thôi thúc truy vấn về thế giới, về những điều cấm kỵ tự hỏi ta đích thực là ai. Tức là tôi tin rằng một bộ phận người quanh tôi bị mắc mứu vào những điều này nhiều hơn những người khác và loay hoay với mọi suy tư tôn giáo hay những nỗi đau, bất an mà họ cứ cố mang theo không buông, cuộc đời đầy những đau khổ và các mâu thuẫn trong thế giới thực tại trở nên khó chịu đựng. Điểm hấp dẫn của giáo phái Aum nằm ở chính những thất vọng của con người với hiện thực, với sự bất an, lủng củng của khái niệm “gia đình”, cảm giác mang tính khải huyền về “tận thế”, những cảm giác chung của con người về tương lai
Bạn chưa từng hiến một phần bản thân mình cho một ai đó hay điều gì đó để đổi lấy một thứ mà bạn nghĩ cần thiết với mình, giúp bạn đương đầu được với cái yếu nhược trong con người mình. Bạn chưa từng giao phó mình cho một tổ chức, đoàn thể trật tự nào to lớn hơn chính cá nhân bạn. Và khi tổ chức đoàn thể ấy yêu cầu một nhiệm vụ thì bạn liệu có biết được nó là việc “loạn trí” “điên rồ” không hay bạn vẫn nghĩ nó nhằm làm tốt đẹp thế giới này như mộng tưởng ban đầu của bạn và bạn thành kẻ sẵn sàng chết vì một nguyên lý, chân lý nào đó bạn tin, một chân lý mang màu sắc chủ nghĩa hiện thực ấn tượng mạnh: trước khi cải tạo thế giới, anh phải cải tạo chính cơ thể mình
Phần lớn những người còn theo Aum hay đã bỏ giáo phái và công khai phê phán Aum khi được hỏi đều không hối tiếc khi gia nhập Aum, với họ đấy là những ngày tháng không uổng phí vì “ở trong Aum họ tìm thấy mục đích trong sáng mà trong xã hội bình thường họ không cảm thấy. Dù cuối cùng nó có trở thành cái gì ghê tởm đi nữa thì ký ức đầm ấm, ngời ngời về sự bình yên được tìm thấy lúc ban đầu vẫn cứ còn lại trong lòng họ và không thứ gì khác có thể dễ dàng thay thế”.
Xét ở một góc độ nào đó, thảm kịch Aum này là những hình dung bị đè nén về tận thế, có thể xem nó như một loại virus được phát tán vào xã hội, chưa thể xóa bỏ hoặc chưa được hiểu thấu đáo. Nói như anh Misuo Arima (41 tuổi) một nạn nhân được phỏng vấn ở nửa đầu sách có nói: cảm thấy như mình đang xem một chương trình tivi “Từ khi chiến tranh kết thúc, kinh tế Nhật tăng trưởng nhanh đến bước chúng ta đã mất đi mọi cảm nhận về khủng hoảng và của cải vật chất là tất cả những gì có ý nghĩa. Ý nghĩ làm hại người là sai, dần đã biến mất. Trước đó, người ta đã nói nhiều đến điều này, tôi biết, nhưng phải đến vụ hơi độc này tôi mới thực sự thấm thía. Nếu ta nuôi dạy một đứa trẻ với cái não trạng ấy thì sẽ ra chuyện gì đây”
Và đặc biệt có một cái nhìn toàn cuộc khách quan như ông Toshiaki Toyoda 52 tuổi, một nhân viên nhà ga với 34 năm trong nghề có nói đến một thứ linh cảm: “Tôi biết xã hội đã đi đến bước sẽ sinh ra thứ gì đó như Aum. Ngày ngày tiếp xúc với hành khách, ông thấy cái mình nhìn thấy. Đó là vấn đề đạo đức. Ở nhà ga ông có một bức tranh rõ rêt về con người vào lúc tiêu cực nhất của họ, những mặt trái của họ. Chẳng hạn, chúng tôi lau quét nhà ga với một cái hót rác và bàn chải cọ, và rồi đúng lúc chúng tôi làm xong thì một ai đó lại lẳng đầu mẩu thuốc lá hay rác vào ngay chỗ chúng tôi vừa dọn sạch. Ở ngoài kia có quá nhiều người tự cho mình là đúng”
Đến một mức độ văn minh nào đó, con người sẽ đi vào trạng huống tự tiêu diệt nhau và xã hội văn minh ấy sẽ bị sụp đổ. Sau nó là utopian hay dystopian là điều nằm ngoài sự hiểu biết của con người, nhỉ
1, Tôi tin rằng việc tiến hành phỏng vấn và tập hợp chúng thành sách, những hiểu biết về thảm kịch sarin và giáo phái Aum là mảnh đất màu mỡ để Murakami viết 1Q84 và đặc biệt với mình là, mình lại có một cảm giác liên hệ giữa Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới với sự kiện của Ngầm dù Xứ sở được viết trước thời điểm thảm họa xảy ra đến 10 năm, trước Ngầm đến 12-13 năm, mình sẽ tìm cách lý giải sợi dây cảm giác của mình vào dịp nào đó mình thu xếp quay lại đọc toàn bộ Haruki Murakami
. Thông qua việc phỏng vấn này, từ cách nhìn và căn bệnh nghề nghiệp của người viết, rất nhiều hình tượng nhân vật đã được xây dựng, nó như việc bỗng dưng anh được nghe rất nhiều suy nghĩ, cảm nhận về cùng một sự việc nhưng đa màu sắc, đa chiều hướng
2, Tôi đọc Ngầm năm 2010 khi đang vừa học vừa làm, tiền ít mà sách thì muốn mua rất nhiều, đọc trong lúc nhà sách vắng khách và không mua nó. Mãi sau này có điều kiện hơn, thì không còn bản in đầu, con người nhiều khi bị những thứ rất ngớ ngẩn trẻ con ngăn cản làm một việc gì đó, nhỉ. Bẵng đi 5 năm, hôm vừa rồi được tặng quyển này thì mới lần hồi đọc lại. Đúng như bộ phim Elegy dựa trên tiểu thuyết The Dying Animal của Philip Roth có nói: cuốn sách đọc lại sau 10 năm có khác không? Thì Ngầm cũng vậy, 5 năm trước vẫn là một người luôn bị thu hút bởi chủ đề tôn giáo, tâm linh, đức tin…nhưng chưa thực sự dùng chính cảm nhận, đức tin của mình, nên lần đọc này cảm thấy rất khác biệt, như đã thay đổi nhãn quan, nhân sinh quan nhìn vào một sự việc vậy. Tôi vẫn cho rằng vì bất cứ lý do gì những người ở giáo phái Aum cũng không được phép làm việc thả hơi độc sarin, tấn công có hệ thống như vậy, việc phải chịu trách nhiệm, bị kết án là hoàn toàn không có gì phải bàn nhưng một mặt nào đấy, tới thời điểm này, tôi nghĩ rằng mọi vận hành của xã hội dù có là loạn trí, điên rồ thì đều có cái lý của nó, chỉ là ta có nhìn ra, có biết, có hiểu được cái lý đó không mà thôi
Tôi có đùa bạn tôi rằng, người như tôi rất dễ sa chân vào một giáo phái nào đấy vì bản thân tôi là một cá nhân yếu đuối luôn cảm thấy không thỏa mãn với cuộc sống thế tục, rồi nỗi bất an, thương cảm bi ai với chính con người, luôn có khao khát tiềm kiếm một thứ gì đó ẩn sâu trong tôi, một thứ mà tôi chỉ có thể cảm thấy nó có mà không thể nắm bắt được. Là thế đấy, rất nẫu colonthree emoticon


ps: sẽ quay lại sửa sau, té đây


30.1.15

Kéo giãn vùng giảm chấn



Tôi nghĩ mỗi người chắc chắn có trong mình một đường hầm đậm đặc bóng tối (tối như tàu lao qua đường hầm xuyên núi). Ở đâu đó, đường hầm này của chúng ta giao nhau. Ô, nhưng trước khi giao nhau để thấy một thứ thấu hiểu đặc biệt sâu sắc, có thể có được thứ cảm giác nương tựa để hành hương đến hết đời thì anh phải học cách bảo vệ mình bằng vùng giảm chấn, mở rộng vùng này ra theo cách tách mình khỏi chính mình, ngắm nhìn nỗi đau của mình như ngắm nhìn nỗi đau của kẻ khác. Nẫu nhể colonthree emoticon

"Mục đích hạn hẹp khiến cho cuộc đời trở nên đơn giản"
Tôi đặc biệt thích câu nói này của cô nàng 38t trong sách vì nó chỉ ra đúng điều tôi chọn sống những năm qua, có thể cả về sau nữa. Tôi nghĩ mình bắt đầu khoái ngắm nhìn chính mình là Sisyphus ì ạch đẩy tảng đá lên rồi nhìn nó lăn xuống rồi lại đẩy lên rồi nó lại lăn xuống rồi lại đẩy lên rồi nó lại lăn xuống, hạn hẹp nhất có thể cho một chu trình làm người. Nhưng tính ì ạch sẽ giảm dần vì hiểu cái giá phải trả rồi mà, chấp nhận đê pacman emoticon
Cứ như vậy, như cá hồi đi một chặng đường rất dài theo sự dẫn lối của thứ gì đó đặc biệt trong bản năng (ký ức khứu giác), hay thứ linh cảm thực sự mạnh mẽ, thậm chí rất mơ hồ.
Tất nhiên, cuộc đời tôi như vậy phải đi kèm với các quyển sách, sách sách và sách sẽ giúp cuộc đời diễn tiến trôi chảy và dễ chịu đựng hơn. Kiểu Tazaki rất thích nhà ga, có thể nói thiên chức của gã là xây dựng, tạo ra nhà ga hay tạo ra thứ gì đó như tên gọi của gã ấy. Tôi ngược lại, không thích nhà ga, tôi cũng không có năng khiếu tạo ra bất cứ thứ gì. Tôi đục sách. Như một con mọt
vậy thôi colonthree emoticon
------------------------
cho này
"...Lòng người và lòng người không bao giờ gắn kết với nhau chỉ bởi sự hài hòa. Mà trái lại, gắn kết với nhau sâu sắc bởi tổn thương và tổn thương. Nối liền với nhau bởi niềm đau và niềm đau, bởi mong manh và mong manh. Không có sự tĩnh lặng nào mà không chứa đựng những tiếng kêu bi thống, không có sự dung thứ nào mà không đổ máu trên mặt đất, không có sự chấp nhận nào mà không phải vượt qua những mất mát đau thương. Đó là thứ nằm trong căn đế của sự hài hòa đích thực"
Trích ở quyển trong hình colonthree emoticon

Chưa bao giờ đọc Haruki Murakami một quyển mỏng mà dai dẳng thời gian như thế này. Với mình, quyển này lỏng lẻo yếu ớt đến ngạc nhiên. Dù mình chưa bao giờ thoát khỏi sức hút các câu chuyện của ổng colonthree emoticon

28.1.13

Điều duy nhất còn lại là sa mạc

Tôi đọc quyển này không nhớ nổi số lần nữa. Nếu căn cứ vào những ngày tháng ghi trên sách thì 8 lần, nhưng nếu trí nhớ của tôi tốt, thì nó phải chừng nhiều lần lắm. Trong những chuyến đi. Những ngày buồn chán. Những ngày trống rỗng...Thôi thì đủ cả, và những lần ấy thì không còn đủ sinh khí để làm một việc vốn thích thú, ghi ngày tháng đọc lên trang gần bìa sách.
Lần đầu đọc nó, là trong một ngày phải đi đi lại lại công trình quá nhiều lần, quá oải, tôi dừng bên vỉa hè gần nhà mua một cuốn văn học Nhật đọc, vô tình đúng thời điểm có cuốn này, (tất nhiên là sách lậu rồi). Tôi đọc khi còn đang cởi dở cái quần jeans, ngồi phịch xuống giường đọc rồi vừa nhay nhay mông để kéo quần ra. Thế rồi khi tôi đọc xong cũng là lúc những le lói cuối cùng của hoàng hôn tắt. Và tôi đã thích nó.
Lần hai đọc nó là lúc mới quen M. Vì lúc quen M, tôi đang đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, tôi nói tôi thích ông này. Nói là thích quyển Phía nam biên giới, phía tây mặt trời kia, anh nói có độc 1 câu, cái tay trong truyện nếu không có quán jazz kia thì chẳng là khỉ gì :)). Qúa buồn cười vì câu nói này, lại của một người ngôn ngữ TV còn quá ngô nghê nên tôi đã đọc lại.
Có khoảng 5-6 lần tôi đọc nó trong quãng 1.5 năm M "bất tỉnh nhân sự". Tôi đọc nó như chỉ để thấy là mình không bệnh tật gì đâu, cũng có người như mình, những nỗi đau, suy tư, những thứ không thể lý giải như mình, những câu hỏi luôn luôn còn lại, như một thứ neo đậu tôi, hãy cứ tiếp tục vì điều duy nhất còn lại là sa mạc. Tôi từng thích Shimamoto-san (giờ vẫn thích :)) chỉ là không còn ngây thơ trong sáng thích một nhân vật ) đến mức tôi đã tiêu tốn đến mấy giờ một mình đứng trong sân trường rộng là rộng chỉ để ngẩn ngơ và buồn. Sự việc này diễn ra vào một ngày thu ( mùa thu là mùa tôi vốn dĩ ghét cay đắng, một kiểu mix đáng ghét ). Tan học tôi ra bãi gửi xe trong trạng thái uể oải, có lẽ đây là hình ảnh của tôi trong chừng hơn 1 năm, mọi người vẫn thấy tôi mạnh mẽ, năng động và hết sức vui vẻ, ngoài việc tôi tiêu tốn thời gian cho việc đọc nhiều hơn trước ( tôi hoàn toàn thích việc này ). Tôi đã tra khóa vào ổ rồi, nhìn sau để lùi xe thì nhìn thấy một cô gái ở ngưỡng cửa phòng học. Không xinh xắn ( tôi nói luôn là tôi không bị thu hút bởi đẹp trai và xinh gái ), nhưng cô ấy rất tươi, có cái gì đấy thu hút tôi cứ muốn nhìn, và cô ấy đang cười. Tôi chỉ liền nghĩ, cô này duyên dáng, mình thích cô gái này. Nhưng khi qua khỏi dãy xe xếp gần lối đi, tôi nhìn thấy cô ấy đi với cùng một kiểu đi của Shimamoto-san ( tôi đã tưởng tưởng dáng đi này rất nhiều lần, thậm chí có nhiều lần đã thử đi :) ). Tôi mê mẩn đến mức, cứ giả bộ tìm trong cặp, dùng mobi...nhưng thực chất là ở lại bãi gửi xe để ngắm cô gái kia nói chuyện. Khi tôi tỉnh ra thì cũng là lúc cả sân trường chỉ còn mình tôi với cái xe bên cạnh và tôi cứ ngơ ngẩn vậy thêm một lúc cho đến khi bảo vệ đến hỏi tôi, ở lại trường học ca tối à thì tôi mới tỉnh cả người, hoàn toàn. Tôi hộc tốc chạy xe tới cửa hàng sách trên Đinh Lễ, vì giờ làm của tôi đã muộn gần 30'
Sau này tôi có mua thêm 2 lần cuốn này. Một lần mua cho M (vì M chưa có sách giấy), một lần mua vì quyển tôi hay đọc là sách lậu, giấy mỏng và tôi đã làm nó thảm hại quá. Nhưng mỗi lần đọc lại, tôi đều đọc quyển xấu vì tôi nghĩ nó có hơi người, nó là một phần của tôi, là mùi hương tôi vẫn luôn thích. Gần đây, tôi cho Chie mượn quyển mới kia, đẹp và ngay ngắn lung linh, vì tôi muốn có người để lại hơi thở trên giấy, người đó sẽ phải là ai khác ngoài tôi, vì tôi vốn sợ tôi sẽ mất thêm gì đấy khi đọc quyển mới kia. Vì lấy cả quyển đẹp và xấu kia xuống khỏi giá sách cùng một lúc nên tôi đã đọc lại thêm lần nữa, quyển sách xấu.
Sao lại có thể buồn như thế. Tôi đang buồn nỗi buồn giống của ai đây, H hay S? Tôi nhớ cả hình ảnh ngón tay mình run run khi giở sách chiều qua. Những lúc phải dùng tay túm chặt áo kéo ra khỏi lồng ngực hay xoa xoa bóp bóp cổ để thoát khỏi cảm giác trực chờ nặng nặng ở cổ.
Có nhiều sự việc rất đơn giản, nhưng không giống như cái mắt ta thấy. Với mỗi người mỗi khác, đều là cách ta phải sống khi bị ném vào sa mạc này.
Tôi bị dạ dày thần kinh ngoại biên. Đôi khi tôi nghĩ việc gì đấy, tôi thậm chí còn chưa nhận biết được rằng mình đang nghĩ lung lắm đây, thì đã kịp biết đến cơn đau dạ dày kiểu dao đâm rồi. Phản ứng của tôi với mọi việc rất buồn cười, vẫn luôn luôn biết, nhưng khi nó đến thì vẫn luôn luôn sững sờ tiếp nhận, đôi khi phải làm mình đau để biết nó là sự thật. Bao giờ cũng là "tưởng". Dù sự cố gì xảy ra cũng là "ơ, hóa ra nó là thế này à?". Hôm qua tôi kêu với bác sĩ ( người quen ), anh ta bảo có gì phải lo, lo cái u ở ngực à? Tôi bảo không, tôi chưa từng nghĩ nó là mối lo, thậm chí còn đang định xăm một đốm lửa đúng vị trí u, vì muốn xăm từ rất lâu rồi, nhưng chưa tìm được một phần cơ thể nào có động lực mạnh mẽ hơn, thích thú hơn để nhận hình xăm này. Bác sĩ cười bá cháy trong phòng khám, hỏi "suy nghĩ về người yêu đúng không?". Đến lượt bệnh nhân kêu bá cháy trong phòng, rồi giả bộ đi rửa tay ở bồn, xa khỏi ánh mắt của bác sĩ, sợ bị người khác trèo qua bức tường, tiến sâu vào trong. Có phải tôi luôn sợ bị ai đó đột nhập và tôi sẽ mất một cái gì đấy, của tôi?

But you went away. How dare you...

6.1.13

chọn lựa cách chết đi







Sau một thời gian gần như là không đọc gì, tôi đã đi mua sách vào tuần trước ( là cái ảnh trên đây ). Mới đọc xong 1Q84 vào đầu tuần, Trường An loạn thì mới xong hôm kia.
- Aomame đọc Nhộng không khí và lý giải tại sao nó thu hút độc giả. Những lý giải ấy như đặc biệt đúng với tôi khi đọc 1Q84 nói riêng và HM nói chung và luôn cả văn học Nhật Bản. 1Q84 làm tôi bất chợt nghĩ đến tôi và M. Của quá khứ, hiện tại và xa hơn nữa.
- Văn học TQ với tôi là một vùng đất hẻo lánh. Nhưng có lẽ tôi hợp với các bác 7x, 8x hơn. Gìa cả hơn nữa thì không đặc biệt thích.
Mẹ tôi đã xuất viện sau phẫu thuật Wertheim, nằm gần 20 ngày. Xạ trị hay hóa chất thì có thể sẽ tiến hành trong thời gian tới. Sau 5 ngày thì đến chị gái sinh em bé. Tôi cứ gọi là váng hết cả đầu. Việc cuối năm lại nhiều nữa. Nhân việc mẹ phẫu thuật, tôi kiểm tra sức khỏe, một việc tôi hết sức ngại. Tóm lại là cũng có 1 u ở ngực trái 8mm*5mm, hình ảnh siêu âm không tốt, có mạch máu chạy qua u, nghĩ nhiều đến ung thư. Nhưng không nằm trong độ tuổi nguy cơ, xét nghiệm sàng lọc âm tính nên hiện tại phía bệnh viện chưa kết luận gì chắc chắn. Tôi tạm thời sống với án treo. Trước, tôi tự khám rồi, biết cái u này tồn tại 3 năm nay, nhưng khi ấy còn chưa 25 tuổi, nghĩ là nang bình thường. Bản thân cũng nghiên cứu nhiều cách tự tử, vẫn đang trên đường tìm kiếm nên chưa xác định sẽ sống bao lâu. Lại càng chủ quan hơn.
Ngày tôi đợi mẹ ra phòng hậu phẫu, tôi tiếp nhận việc hình ảnh siêu âm của cái u tin hin ngực trái. Rồi em gái từ Saigon gọi ra nói tim đánh trống ngực vì "hai vợ chồng đang chở nhau đi lòng vòng thì chồng tham gia bắt cướp", đi khám thì hở van hai lá 1/4. Tôi ngồi liền 2h không nhúc nhích trên ghế hành lang bệnh viện. Nghĩ là mình ung thư, sẽ chết đẹp, nhất định không sống mà bị thiếu, xấu. Sau ngần ấy thời gian, nghĩ đến mình đã xong, quyết định rồi, mới nhớ ra, mẹ ở phòng mổ được 5h vẫn chưa ra, thế là bắt đầu vận hành đầu óc tốt hơn. Tôi đã không cả đến bùi ngùi đỏ mắt, chỉ đến ngày M về, thì mới đủ can đảm để được sợ hãi và khóc. Tôi gọi đấy là trở về. Nhân việc này, tôi giải thích các cái title blog đều xuất hiện trong đầu tôi từ những điều tôi và M từng nói, từng cảm nhận...nên nó rất "không liên quan". (các bác nào thắc mắc, coi như tôi đã và đang giải thích, tôi có blog này, riêng dành phần tôi là nhiều thôi ạ. Thi thoảng type vớ vỉn xả stress :)

27.2.09

SPUTNIK SWEETHEART ( NGƯỜI TÌNH SPUTNIK ) _ MH

- Gần 300 tr . Ngốn độ 4 tiếng .
- Có thể xem là nhẹ so với các cuốn trước của Murakami Haruki .
- Dịch giả : Ngân Xuyên ( cá nhân tớ không khoái ! )
Hummmmm ...
Vẫn là những nhân vật thú vị . Từ nhân vật Tôi ( K _ thầy giáo tiểu học ) . Sumire hoang . Miu quyến rũ , đầy tài năng .
1 mối tình ám ảnh lơ lửng tình yêu - tình bạn - tình yêu của K & Sumire . Thường , những tình cảm này sẽ đeo bám dài hơi .
1 tình yêu "mạnh mẽ giống như một cơn lốc xoáy tràn qua các bình nguyên, cuốn phăng mọi vật trên đường đi, bốc chúng tung lên trời, xé tan chúng ra từng mảnh, vò nát chúng thành từng miếng. Cơn lốc không hề giảm cường độ khi nó băng qua đại dương, biến Angkor Wat thành đống hoang tàn, thiêu cháy rừng già Ấn Ðộ với hổ báo và muôn loài, rồi biến thành một cơn bão cát sa mạc vùng vịnh Ba Tư, chôn vùi cả một thành phố pháo đài cổ xưa dưới một biển cát..." . Đó là Sumire 22 tuổi . Cô yêu Miu ngay từ lần gặp đầu tiên . Miu , người hơn cô 17 tuổi , đã có gia đình và là 1 phụ nữ quyến rũ .
4.10.1957 Sputnik I , Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới . Bay vòng quanh Trái Đất mất 96'12''
3.11.1957 Sputnik II , được phóng thành công , mang theo chú chó Laika . Laika trở thành sinh vật sống đầu tiên rời khí quyển Trái Đất , nhưng vệ tinh này không bao giờ trở về ... "
Sputnik Sweetheart "Nó khiến chị nhớ tới con chó Laika. Con tàu vệ tinh nhân tạo đang lao vút không tiếng động lên khoảng tối đen của không gian bên ngoài. Cặp mắt đen lung linh của con chó dán vào ô cửa sổ nhỏ. Trong khoảng không bao la đơn độc, Laika có thể thấy được gì?".
Cuốn này có thể đọc 1 mạch được . Bạn bị dẫn dụ theo mà quên mất mọi điều xung quanh . Tôi ngồi ở tầng 6 , kê mông trên đôi dép mà đọc tới mờ tịt cả mắt . Và nếu bạn có những giấc mơ ám ảnh , trở đi trở lại trong suốt 1 quãng nào đấy của đời sống . Sẽ có khi , những trang cuối của cuốn này làm bạn gai lạnh . Có khi nào cái tiếng Rắc ấy bạn nghe thấy đâu đấy quanh mình và rõ ràng là cái Tôi của bạn bị tách thành 2 nửa . Một nửa ở thế giới bên này và một nửa ở thế giới bên kia ??
Miu là như vậy . Ở tuổi 25 , cô mất đi một nửa cái tôi của mình . Suốt 14 năm , cô sống với cái tôi chỉ bằng một nửa của cô trước kia .
Sumire mất tích . Sumire đi tìm . Tìm một nửa cái tôi của cô , của Miu . Và K biết , Miu biết . Sumire không chết . Cô vẫn quanh đâu đây . Chỉ là , cô không ở bất cứ nơi nào cả !!
"Tôi vẫn ở phía này, ở đây. Nhưng một cái tôi khác, có thể là một nửa của tôi, đã đi sang phía khác. Mang theo cả mái tóc đen của tôi, ham muốn tình dục của tôi, chu kỳ kinh nguyệt của tôi, buồng trứng của tôi, thậm chí có lẽ cả lòng muốn sống nữa. Và nửa còn lại là cái người em đang thấy ở đây. Kể từ hôm đó, vì một lý do tôi không thể giải thích được, tôi đã vĩnh viễn bị tách thành hai nửa. Ðiều này giống như một kiểu giao dịch vậy. Ðây không phải là một cái gì tôi bị mất cắp, bởi vì nó vẫn tồn tại đấy, ở phía khác. Giống như một tấm gương đơn ngăn cách chúng ta với phía khác. Nhưng tôi không bao giờ có thể xuyên qua ranh giới tấm kính đơn đó được. Không bao giờ. Tôi nghĩ không bao giờ là một từ quá mạnh. Có thể một ngày nào đó, ở đâu đó, chúng tôi sẽ gặp lại nhau và ráp lại thành một. Tuy nhiên vẫn còn một câu hỏi rất quan trọng chưa có lời đáp. Cái tôi nào, ở phía nào của gương, là tôi thật? Tôi không biết".
"Tôi đã sống trước đây, và tôi đang sống bây giờ, đang ngồi đây nói chuyện với em. Nhưng cái em thấy ở đây không phải là tôi thực sự. Ðó chỉ là cái bóng của người tôi đã là. Em mới là người sống thực sự. Còn tôi thì không. Ngay cả những lời tôi đang nói đây cũng là những âm thanh trống rỗng, nghe như tiếng vang".
Đã có khi nào bạn quanh quẩn bởi câu hỏi : Ta là ai ? Tôi là ai ?? . Ai cũng từng ít nhiều bùng nhùng trong mớ ấy . Nó ngốn của bạn khẩu phần lớn về thời gian ở quãng nào đó trong đời . Cứ luẩn quẩn mà không chịu rời khỏi bộ não của bất cứ ai .!!
Vẫn là sự cô độc . Sự tìm kiếm kết nối giữa người với người hay sự kết nối các kỹ năng hòa hợp trong từng cá thể ?? Tôi không thực sự biết . Có khi nào , ánh mắt đơn độc của Laika lại quá gần , chỉ như 1 thước phim ám vào đầu bạn , luôn kèm với câu hỏi vo vo bên tai : "Trong khoảng không đơn độc , Laika có thể thấy được gì ?"
Hết gần 300tr , bạn cũng sẽ vẫn gặp cảm giác từa tựa mỗi khi đọc Murakami Haruki . Những ẩn dụ triết lý được lồng ghép . Những cái nhìn xa xa kèm 1 mớ câu hỏi mà không có câu trả lời hoặc không thể trả lời . 1 hỗn mang cái man mác buồn . Những bản nhạc , những tác phẩm ...
Tôi có phần hơi hẫng khi gấp cuốn này lại . So với các cuốn của tác giả đã được chuyển ngữ , cuốn này có vẻ yếu ớt trên nhiều phương diện . ( ?? )
TB : Emi Khuyết ( trích )
"Cô trễ nải trên mình với chemise trắng , mũ rộng vành , quần chip . Ngồi tựa bờ đá . Đã ba chiều nắng rồi , cô ngồi đây mặc gió , biển và nắng đùa nghịch cô . Em bé ấy đi dọc bờ biển dường như dài vô tận , ngút tầm mắt này và đi dần về phía cô . Cô ngỡ ngàng . Bởi bộ váy trắng chấm đỏ em đang mặc . Bởi mái tóc . Bởi khuôn mặt , Bởi cái nheo mắt . Bởi tất cả . Vì em như một bản sao của cô . Em có các nét mơn mởn khác cô ở làn da . Hay ở đôi chân trần thon dài .
Cô không biết . Tất cả cho cô một sự hỗn mang trong bộ não . Cô phải xử lý quá nhiều thông tin . Cô vui và cô lại sợ . Cứ mỗi lúc em lại tiến đến gần cô hơn . Và bao giờ cũng vậy , em vén tấm lưới chài nhiều nhiều lần để cúi mình đi qua . Em vén nhiều lần lắm , nhiều tới độ cô có cảm giác cô đang xem thước phim và bị vấp quá nhiều lần .
Nhưng rồi , em vẫn đến bên cô , tay em mang một cái giỏ . Em đưa thứ gì đó cho cô . Cô vẫn đang ngập ngừng phân vân , em bé này là ai ?
Cô không chắc thứ ấy dành cho mình . Cô không đưa tay ra đón nhận . Cô chỉ tay về mình như có ý hỏi "Thứ ấy dành cho tôi ư , cô bé ?" . Em bé gật đầu , nheo mắt mỉm cười . Trán em cũng rịn chút mồ hôi . Từ cái trán rịn mồ hôi cũng là của cô . Chuyện gì đang xảy ra ?
Cô đưa tay nhận . Đó là số 24 . Một con số không được khắc , không được dán hay gá vào bất cứ thứ gì . Chỉ đơn giản là số 24 trong , tựa như một con số được viết ra trước mắt nhưng lại không hề là vậy . Nó hiện hữu , cô cầm nó chắc nịch đến vậy cơ mà ?? Con số này có ý nghĩa gì ??
Em bé ấy tiến lại phía cô , gối đầu trên chân cô và thiếp đi trong nụ cười , tay em nắm chặt áo cô . Tay em nắm chặt tay cô ... Và bất chợt , sau ít phút lưỡng lự , cô đưa tay lùa vào tóc em , vuốt nhẹ vầng trán rịn chút ẩm ướt , vầng trán với những sợi tóc tơ ...
Như thước phim không lời thoại , cứ trở đi trở lại . Cô là ai ? Và em bé ấy là ai ??
Và ... thước phim ấy là gì ??"

26.2.09

HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG TRONG "BNKCVDC"

Tác giả : Nguyễn Anh Dân
1. Cảm thức biểu tượng hóa trong tư duy tiểu thuyết huyền ảo đã tạo nên một thế giới biểu tượng hết sức đậm đặc và sinh động trong “Biên niên ký chim vặn dây cót”. Hệ thống biểu tượng trong tác phẩm khá đa dạng từ vật thể đến con người, đó hoàn toàn có thể là một kiểu trò chơi biểu tượng của Murakami.
Hầu hết các thông điệp, các ý nghĩa tầng ngầm cũng như các phương thức nghệ thuật đều có mối quan hệ mật thiết với biểu tượng, thông qua biểu tượng để khám phá tác phẩm. Và quả thực, đây không phải là một tác phẩm dễ giải mã khi mà trong nó ngồn ngộn hệ thống ký hiệu quy ước của cá nhân - những biểu tượng của tác giả.
2. Biên niên ký chim vặn dây cót được bắt đầu bằng sự biến mất của con mèo Wataya Noburu, đó là dấu hiệu của sự tan vỡ hay một sự biến đổi quan trọng, đúng lúc đó Kumiko đã biến mất sau sự ra đi của con mèo - đó là sự ra đi theo tiếng gọi bầy đàn như con mèo của cô. Con mèo là biểu tượng của sự tan vỡ và thay đổi dòng chảy.
Chiếc giếng cạn ở Nội Mông cũng như chiếc giếng trong căn nhà hoang là hai biểu tượng có mối quan hệ với nhau: một bên là điểm đến của sự mặc khải, một bên là điểm bắt đầu của sự tìm kiếm mặc khải. Nó đồng thời là một biểu tượng của sự vô cảm, của hành động tuyệt giao với thế giới bên ngoài, đó là sự phủ nhận niềm tin của tư duy vào đời sống hiện thực ngoài kia: “Nó toát lên một cái gì đó có thể gọi là 'sự vô cảm tuyệt đối'. Có cảm giác như chỉ cần ta rời mắt khỏi khung cảnh này, lập tức những vật vô tri sẽ càng vô tri hơn nữa” [tr.80]. Xuống giếng với Toru Okada là hành trình tìm kiếm chân lý và đúng như Honda đã nói: “Hễ đi lên thì phải chọn ngọn tháp cao nhất mà trèo lên đỉnh. Hễ đã đi xuống thì hãy tìm cái giếng sâu nhất mà chui xuống đáy” [tr.64]. Con người ta chỉ có thể tìm được chân lý khi đã đến được với đỉnh cao tuyệt đối để quan sát hay đến tận cùng của khổ đau để chiêm nghiệm, chẳng dễ gì đạt đến đốn ngộ khi sống ở giữa lưng chừng.
Cuộc sống của những con người hiện đại trong Biên niên ký chim vặn dây cót là một cuộc sống lưng chừng như thế, họ bị bó hẹp trong khoảng không gian tù túng, chật hẹp của xã hội tựa như ngôi nhà hoang, như cái ngõ cụt mà Toru Okada đi tìm kiếm con mèo. Đó là một không gian thiếu sức sống, bị bỏ quên giữa dòng đời ồn ào, náo nhiệt - một sự lãng quên chua xót: “Nó vẫn đứng nguyên đấy, lặng ngắt như mọi khi. Trên nền trời xám trĩu nặng, căn nhà hai tầng với những cánh cửa đóng im ỉm trồi lên đen thẫm…” [tr.72]. Con người hiện đại cũng đang bị lãng quên như thế, họ cũng đang lãng quên người khác như thế, và cuối cùng số phận của họ cũng như cái tượng chim không tâm hồn, bất động trong ngôi nhà hoang ấy mà thôi.
Tất cả họ cần những ánh sáng mặc khải như thứ ánh sáng huyền nhiệm của mặt trời Nội Mông nhưng dễ gì có được với họ, nó đã trở thành quá khứ, nó không còn tồn tại ở hiện tại. Vậy nên cái biểu tượng của sự cứu rỗi ấy cũng trở nên xa vời đối với những con người đang bị kìm kẹp trong dục vọng của đời mình.
Dấu hiệu duy nhất của sự mặc khải hiện tại nằm trong vết nám trên khuôn mặt của Toru Okada. Dường như đó là sự đánh dấu của lịch sử trên gương mặt của người được lựa chọn - anh được lựa chọn để cứu rỗi con người ra khỏi những đày đọa của chính họ. Và quả thực anh đã làm được điều mà người ta trông đợi mặc dù tưởng chừng anh đã phải bỏ cả mạng sống của mình, đó là biểu hiện cao đẹp của những con người dấn thân: “…Và trong khi làm vậy, anh cũng đã cứu được nhiều người. Nhưng bản thân mình thì anh lại không cứu được. Anh đã dốc cạn sức mình, đem cả tính mạng mình ra để cứu người khác. Hạt giống của anh thảy đã gieo chỗ khác hết rồi, giờ túi anh rỗng không…” [tr.687].
Quả thực nếu viên bác sĩ thú y là tiền kiếp của Toru Okada thì chính anh chứ không phải người đàn ông kia đã thực hiện được thiên sứ của mình, có thể viên bác sĩ ý thức được sự vần chuyển của thế giới nhưng không đủ sức để vần xoay nó: “Từ khi còn trẻ anh đã có một nhận thức minh bạch kỳ lạ rằng: “Ta với tư cách cá nhân, đang sống dưới sự kiểm soát của một thế lực ở bên ngoài ta”. Đây hẳn vì vết bầm màu xanh dương sống động trên má phải của anh” [tr.592]. Còn Toru Okada với sự dấn thân của mình, anh đã chiến đấu để chống lại cái trật tự cuồng loạn của hiện thực để cứu người vợ mình, cứu thêm nhiều người khác, để cái dòng chảy bị ngăn trở trở nên khai thông.
Vấn đề là họ cần một thứ công cụ để khai thông, xét cho cùng, ngoài vết bầm trên mặt thì cây gậy bóng chày có mối quan hệ mật thiết với Toru Okada và viên bác sĩ hơn cả. Nếu trong thời điểm trước đó, cây gậy bóng chày là thứ vũ khí mà toán lính Nhật hành quyết cậu thanh niên người Mãn Châu Quốc thì sau này, nó là cây gậy để giải quyết cuộc đời của Wataya Noburu. Trước đó nó dùng để đánh vào đầu kẻ thù và viên bác sĩ thú y cũng bị kéo vào lòng cái chết. Sau này nó cũng được dùng để đánh vào kẻ thù nhưng không phải là thứ kẻ thù ngoại bang mà là đồng quốc với chính mình. Hẳn đó là một kết cục đau xót cho tội ác hay là một thứ thông điệp về quy luật nhân quả: tội ác không có biên giới và mọi tội ác đều phải trả giá.
3. Trong tác phẩm này, Murakami đã sáng tạo ra một hình tượng -biểu tượng độc đáo, xuyên suốt toàn tác phẩm, nó cũng chính là điểm sáng thẩm mỹ của tác phẩm: biểu tượng chim vặn dây cót. Nó hoàn toàn là một loài chim tưởng tượng, không hề tồn tại trên thế gian, nó chỉ tồn tại trong phạm vi cái ác và chỉ một vài người trong nhân loại nghe được. Tiếng kêu “quick… quick…” của nó chỉ vang lên với cậu bé trong đêm, với hai người lính trong vườn thú Tân Kinh và với Toru Okada. Nghe được âm thanh của chim vặn dây cót cũng là nghe tiếng gọi của tử thần. Hai người lính trong vườn thú năm nào đều bỏ mạng ở Siberia, một người bị đập toác sọ, một người chết đói, cậu bé trong đêm mất đi giọng nói của mình theo tiếng kêu của con chim kỳ lạ, Toru Okada thì suýt mất mạng. Tiếng chim vặn dây cót chỉ vang lên trong những thời khắc quyết định khi mà cái ác sắp thành hình, khi mà con người đang rõ ràng trượt khỏi quỹ đạo của tính thiện. Đó là tiếng kêu của ý thức để lay động những cơn vô thức tập thể đang cuồng điên trong thế giới loài người. Tiếng kêu ấy trở thành biểu tượng của sự cảnh báo để con người lập lại cân bằng cho chính mình và cho xã hội đồng thời nó cũng là tiếng thúc giục con người đi tìm chân lý, xóa bỏ đi “lời nguyền” mà chim vặn dây cót đem đến. Nó là biểu tượng của sự cứu rỗi. “Tiếng hót của chim vặn giây cót trở thành biểu tượng sự thức tỉnh những xúc cảm mãnh liệt và sự trưởng thành về bản ngã của con người trong đời sống hiện đại. Đó chính là ý nghĩa của hình tượng chim giây cót xuyên suốt cuốn tiểu thuyết lớn của Haruki Murakami”. (Khánh Phương - eVăn).
4. Trò chơi biểu tượng còn được Murakami biểu tượng hóa trong từng nhân vật, mỗi nhân vật là một biểu tượng - trước hết là biểu tượng cho chính mình. Trong thế giới nhân vật ấy, có những con người biểu tượng cho quyền lực, cho nhục dục như Wataya Noburu, có những con người biểu tượng cho nỗi nhục quá khứ như Mamiya… Mỗi người trong số họ đều chứa những mâu thuẫn nhất định. Kumiko vừa muốn đi theo tiếng gọi của dục vọng nhưng lại từ chối giữ lại cái thai của mình, chắc chắn đó phải là đứa con của vợ chồng cô nhưng cô lo sợ những phẩm chất của mình sẽ trỗi dậy trong cái hình hài bé nhỏ kia, đó là một hành động đoạn tuyệt với cái ác. Người nghệ sĩ mang hộp đàn guitar đi truyền tải thông điệp đồng cảm đến người khác nhưng đồng thời lại tấn công Toru Okada - biểu hiện trái ngược với những gì anh đã nói, nhưng rất có thể đó là hành động để thức tỉnh cơn mê ngủ của Toru Okada - một cách thức tỉnh đầy bạo lực… Những mâu thuẫn ấy nằm trong bản chất của sự vận động và phát triển của đời sống xã hội. Thế giới của Biên niên ký chim vặn dây cót đầy rẫy những vô thức cá nhân và vô thức cộng đồng đang trỗi dậy. Nó đòi hỏi sự phá vỡ trật tự một cách không khoan nhượng để lấy lại cái phần ý thức người mà mỗi một cá nhân đang tìm kiếm. Sự mâu thuẫn là động lực để tồn tại và phát triển của con người hiện đại.
5. Hệ thống biểu tượng của Biên niên ký chim vặn dây cót đa dạng và phức tạp, nó trải dài trên các bình diện không gian, thời gian, nhân vật đến cấu trúc, kết cấu. Từ ngôi nhà hoang, giếng cạn, ánh sáng mặc khải, khách sạn mơ… đến quá khứ, lịch sử hay Toru Okada, Kasahara May, Kumiko, Wataya Noburu… Chúng đã tạo nên một thế giới biểu tượng nhiều màu sắc kết hợp trong những cấu trúc truyện kể độc đáo đã góp phần chuyển tải những thông điệp sâu sắc của Haruki Murakami đến với người đọc.

21.2.09

HARUKI MURAKAMI

Nhà văn Nhật (sinh năm 1949). Tác phẩm nổi tiếng đã dịch ra tiếng Việt: Rừng Na Uy (bản dịch tiếng Anh: Norwegian Wood) , Biên niên ký chim vặn dây cót , Phía Nam biên giới Phía Tây mặt trời , Kafka bên bờ biển ... Các tác phẩm khác đã dịch ra tiếng Anh: - Sputnik Sweetheart - Underground - South of the Border, West of the Sun - The Wind-up Bird Chronicle - Dance, Dance, Dance - The Elephant Vanishes - Hard-Boiled Wonderland and the End of the World - A Wild Sheep Chase - Pinball, 1973 - Hear the Wind Sing
Rừng Nauy
Nơi Murakami phá vỡ địa hạt cấm cuối cùng, để cho cái nhìn phóng khoáng và tự nhiên về xác thân của phương Tây tràn ngập trong văn ông.
Tên sách: Rừng Nauy Tác giả: Haruki Murakami Dịch giả: Trịnh Lữ NXB Hội nhà văn và Công ty Văn hoá & Truyền thông Nhã Nam 2006
Trang bìa cuốn tiểu thuyết.Có thể, bạn sẽ thấy lòng mình chạnh buồn khi cùng bước về thời tuổi trẻ của Watanabe, trước những câu chuyện về tình bạn, tình yêu, giữa con người - con người ở đây được trải ra trong một nhịp điệu tinh tế và trầm lắng. Bạn khó lòng dứt ra nửa chừng ở thế giới đó, nơi nỗi buồn đã vây kín những bước chân, khi tất cả các nhân vật đều thành thật trở về thế giới riêng tư của mình. Họ cô đơn tới mức không giấu giếm thân phận, nỗi niềm, những cật vấn cá nhân. Và ở đó, bạn gặp những câu chuyện chân xác, không màu mè, để tự mình vén lên bức màn quanh những nhân vật mang tính cách có phần lạ lùng: Toru, Naoko, và Midori.
Bất chợt lắng nghe bài hát của Beatle: Rừng Nauy, Toru nhớ lại mối tình đầu ngọt ngào và đau đớn của hai mươi năm trước. Nàng là Naoko, với vẻ đẹp mong manh và yểu mệnh trước cuộc đời, khi những cuộc đi lang thang vô định của hai người trong thành phố đã khởi nguồn cho tình yêu của chàng trai mới lớn. Không có được sự thăng bằng về tâm lý, Naoko rời bỏ tất cả tới sống trong một dưỡng đường, trong khi Toru ở lại gắng sống cuộc đời cô độc trong trường đại học. Điều gì gắn hai người với nhau, đó là cảm thức về cái chết sau vụ tự sát buồn thảm của người bạn thân nhất của cả hai: Kizuki. Họ bỗng nhận ra, sự nhẹ bỗng của tồn tại và sự mong manh của sợi dây tình cảm giữa người với người để rồi xích lại gần nhau trong nỗi chông chênh. Và mối tình ngọt ngào u uẩn chớm nở đó cũng không làm mờ phai những nghi vấn muôn đời của tuổi trẻ: Tại sao ta cô đơn, nền tảng cuộc đời là gì, cái gì có thể khỏa lấp nỗi trống trải trong một xã hội tham vọng và xa lạ, mang lại ý nghĩa cho cuộc hiện sinh ngắn ngủi. Đối diện cuộc đời, Naoko đã lựa chọn cái chết, còn Toru, chàng trai đó đã chọn sự sống, khi bắt đầu tình yêu mới với Midori ....
Rừng Nauy là như thế! Cuốn sách đã đưa Haruki Murakami lên vị trí một thần tượng văn hóa thế giới, đã gói trong mình hương vị của một Nhật Bản hôm qua và hôm nay. Có thể gọi đó là gì, khi thiên nhiên Nhật và con người Nhật mẫn cảm thì vẫn thế, trong nỗi trống vắng siêu hình, trong sự duy mỹ, trong tâm trạng bi thương về hai lẽ sống chết. Sự đầy rẫy những nhân vật tự tử vẫn là một dòng chảy chưa bao giờ cạn kiệt trong văn chương xứ sở này, đến Murakami cũng vậy. Ông là một nhà văn Nhật bản trong ý nghĩa đầy đủ nhất của từ này, khi đã cùng lúc gìn giữ những lý tưởng tinh thần và thái độ thẩm mỹ Nhật, đặc biệt là sự thấm đẫm cảm giác thiền của một người phương Đông.
Nhưng Nhật Bản của hôm nay, phải chăng là nơi người ta chứng kiến nỗi cô đơn của con người trong một xã hội hiện đại hãnh tiến và đầy ắp những giá trị vật chất, đã khiến các nhân vật của ông phải đi tìm nền tảng cuộc đời trong tình yêu và sự sống tự do, bình dị của cá nhân. Cá nhân và sự giải phóng của xác thân, như là công cụ cuối cùng, thông qua tình dục. Như một cái giỏ để những con người tuổi trẻ trút bỏ những bất lực của một đời sống buồn chán và mất phương hướng, tình dục cũng lại như một hình thức hướng thượng, thiêng liêng nhất của nhân tính, là biểu hiện gợi cảm của sự hòa hợp toàn vẹn, hòng mang lại cho đời ta hạnh phúc và ý nghĩa. Với những trang viết không kiêng dè, sex và chất thơ của sex, Murakami đã phá vỡ địa hạt cấm cuối cùng, để cho cái nhìn phóng khoáng và tự nhiên về xác thân của phương Tây tràn ngập trong văn ông. Và cùng với Rừng Nauy, bắt đầu thổi sinh khí cho nền văn chương ưa thuần túy tinh thần của Nhật Bản .
Biên niên ký chim vặn dây cót
Haruki Murakami đã khắc hoạ những cung bậc tinh tế biến ảo tới mức siêu thực của đời sống nội tâm và những giấc mơ, đã vượt qua những thủ pháp kể chuyện có phần duy lý của phương Tây, bộc lộ một cái nhìn tràn đầy vẻ đẹp của Thiền và triết lý phương Đông trong một tinh thần nhân đạo mạnh mẽ.
Biên niên ký chim vặn dây cót
Tên sách: Biên niên ký chim vặn dây cót Tác giả: Haruki Murakami Dịch giả: Trần Tiễn Cao Đăng Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Nhã Nam ấn hành.
Haruki Murakami đã khắc hoạ những cung bậc tinh tế biến ảo tới mức siêu thực của đời sống nội tâm và những giấc mơ, đã vượt qua những thủ pháp kể chuyện có phần duy lý của phương Tây, bộc lộ một cái nhìn tràn đầy vẻ đẹp của Thiền và triết lý phương Đông trong một tinh thần nhân đạo mạnh mẽ.
Tiếng hót của con chim vặn giây cót chỉ vang lên vào những thời khắc quyết định, khi con người tỉnh thức những tiếng lòng thầm kín, hay khoảnh khắc thấu suốt cảm giác về Định mệnh; tiếng chim tiên báo những thảm hoạ khốc liệt khơi nguồn từ chính con người, cũng là tiếng thúc giục âm thầm của khát vọng đi tìm chân lý. Tiếng hót của chim vặn giây cót trở thành biểu tượng sự thức tỉnh những xúc cảm mãnh liệt và sự trưởng thành về bản ngã của con người trong đời sống hiện đại. Đó chính là ý nghĩa của hình tượng chim giây cót xuyên suốt cuốn tiểu thuyết lớn của Haruki Murakami
Nếu như Rừng Nauy vừa được trao giải thưởng Franz Kafka năm 2006 của Viện hàn lâm nghệ thuật CH Czech, thì Biên niên ký chim vặn dây cót là tiểu thuyết chính thức làm nên tên tuổi Haruki Murakami ở phương Tây và nhiều nước khác trên thế giới. Đến độ trên bìa các cuốn sách khác của Murakami, người ta thường đọc thấy dòng quảng cáo “Được viết bởi tác giả của Biên niên ký chim vặn dây cót”.
Câu chuyện đưa ta đến nước Nhật thời hiện đại, với những thân phận con người bé nhỏ, lạ lùng. Những cô bé 15 tuổi, như Kasahara May, ngồi sau xe môtô phóng với tốc độ kinh hoàng, vươn tay bịt mắt bạn trai phía trước. Sau tai nạn, bạn trai qua đời, chỉ còn lại mình cô với nỗi day dứt khôn nguôi: “Chính vì có cái chết, người ta mới phải băn khoăn nhiều đến thế về sự sống.” Những thiếu nữ, như Kano Kreta, tự kết liễu đời mình để giải thoát những cơn đau triền miên có thể gặp phải bất cứ lúc nào, vì bất cứ điều gì nhưng không thành. Phải trả nợ một khoản tiền lớn cho hãng bảo hiểm, không do dự, cô đi làm gái điếm. Những Dân biểu nghị viên như Wataya Noburu, leo cao trong danh vọng nhờ tài lừa dối đám đông và khả năng khơi dậy những bản năng sa đoạ ở người khác… Trong thế giới ấy, nhân vật chính của Biên niên ký chim vặn giây cót, Okada Toru, chàng trai giản dị và chân thành, phải đối mặt với biến cố lạ lùng: Kumiko, người vợ yêu dấu của anh bỗng nhiên biến mất không một lời nhắn gửi. Sự kiện phi lý này khơi nguồn cho sự thức tỉnh trong Okada, thúc đẩy anh ngắm nhìn, chứng nghiệm lại thế giới tràn đầy cái phi lý chung quanh mình, bằng con mắt bản thể. Với Murakami, thế giới đầy những điều bất thường, phi lý trở thành động lực để con người lên đường trở lại với bản thể chính mình.Cũng tại thời điểm này, Toru Okada nghe thấy tiếng hót của con chim vặn giây cót, như tiếng vọng của bản ngã chính anh. Watanabe bắt đầu cuộc hành trình nhận thức, cuộc hành trình tràn đầy những xúc cảm mãnh liệt khám phá lại cuộc sống và tình yêu đã qua, cuộc sống đang diễn ra, của chính mình và những người xung quanh. Với Okada, từ đây cũng mở ra một thế giới siêu thực với những giấc mơ đầy ám ảnh tính dục, những căn phòng tối đen ngào ngạt phấn hoa cất giấu bí mật về sự lệ thuộc và nô dịch, bóng tối thẳm sâu của bản ngã và xa rời bản ngã, Thiền, và những năng lực tâm linh siêu hình. Trong những mối quan hệ đầy cảm thông và gần gũi với những phụ nữ khác, Kasahara May, mẹ con nhà tạo mẫu Akasaka Nhục đậu khấu, hay Kano Kreta…, Okada dần dần hiểu ra bản chất của cuộc sống con người, không phải một mắt xích của thế giới vật chất cơ giới từ bên ngoài, mà chính là những năng lực tưởng tượng sáng tạo của nội giới, những ám ảnh tinh thần truyền từ người nọ sang người kia, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Okada cũng nối lại trong mình sợi dây liên kết bí ẩn mà mạch lạc với quá khứ xa xăm, nhờ những câu chuyện của các chiến binh xưa và nhân chứng sống như Akasaka. Một thế giới khác, giấc mộng bá chủ không thành của quân đội Thiên hoàng trên cao nguyên Nội Mông, trận Normohan, Trân Châu Cảng, những cuộc tàn sát man rợ trong và sau Thế chiến 2, khi con người từng rơi vào vực thẳm bởi chính sự tàn ác và lầm lạc của chính mình. Okada đã giác ngộ, không còn cách nào khác, chỉ có cương quyết diệt trừ cái ác, bắt đầu từ trong chính những - giấc - mơ của con người, đấu tranh chống lại nó trong chính thực tại hôm nay. Đó cũng là con đường để giải thoát cho người vợ thân yêu của anh đang bị giam cầm trong vết thương tinh thần như một ác mộng khủng khiếp về con quỷ Râu xanh, do chính người anh vợ, chính khách Wataya Noburu gây nên.
Okada và Watanabe của Rừng Nauy, là loại nhân vật quen thuộc của Murakami. Chân thành và giản dị, không bị ảnh hưởng bởi bất cứ khuôn mẫu xã hội nào, sống và yêu thương với bản tính tự nhiên và hiện sinh, đồng thời lắng nghe, cảm thông, kết nối con người với nhau - các nhân vật thể hiện trọn vẹn và sâu sắc tinh thần nhân đạo của Murakami.
Bạo lực và tình dục, những yếu tố thịnh hành của thể loại tiểu thuyết đen phổ biến trên thế giới, xuất hiện trong tác phẩm của Murakami chỉ như một trong những phương diện miêu tả và khám phá đời sống. Vẻ đẹp tràn đầy tác phẩm là sự tinh tế và mãnh liệt của tinh thần và bản ngã con người, đủ để đưa Murakami đứng vào hàng các tác gia vĩ đại trên thế giới.
So với bản dịch Rừng Nauy ngọt ngào của Trịnh Lữ, Biên niên ký chim vặn dây cót đến với người đọc Việt Nam qua bàn tay của dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng với một phong cách nổi bật bởi sự chân xác, thấu suốt. Người ta không còn có cảm giác đây là một tác phẩm dịch nữa, để có thể tin cậy đắm mình vào sự dẫn dắt kỳ tài của một câu chuyện lớn.
Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời
Đó là câu chuyện đau đớn, khuấy động một cách ám ảnh. Một cuốn sách đẹp, gần như là mịn màng về những tầng sâu không thể dò đến của chúng ta.
Phía Nam biên giới , phía Tây mặt trời
Tên sách: Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời Tác giả: Haruki Murakami Dịch giả: Cao Việt Dũng Nhà xuất bản Hội nhà văn và công ty Nhã Nam
Ngay từ nhỏ, cậu bé Hajime đã nhận thức sự bối rối và mặc cảm thân phận "con một", chẳng giống những đứa bạn cùng trang lứa. Và sau này, người bạn gái thân nhất của Hajime, Shimamoto-san cũng thuộc diện "con một" hiếm hoi. Đến người con gái mà Hajime lao vào với niềm đam mê khoái lạc không thể kiểm soát được, cũng là "con một"... Khuấy động ngay từ đầu câu chuyện là một chàng trai quá nhạy cảm với xung quanh như thế.
Năm 37 tuổi, Hajime đã có một cơ ngơi đáng để anh mỉm cười hài lòng, một công việc vừa kiếm ra tiền, vừa thỏa mãn sở thích cá nhân, một người vợ xinh đẹp mà anh hết lòng yêu mến, hai đứa con thơ lúc nào cũng quấn quít chân bố. Cũng như nhiều đàn ông khác ở lứa tuổi này, Hajime cũng có tình nhân, nhưng chỉ là thoáng qua mà không đọng lại chút dư vị nào.
Trang bìa cuốn Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời.
Hajime được yêu và cảm thấy sự may mắn và hạnh phúc. Nhưng trong cái vòng quay đều đặn mỗi ngày ấy, có cái gì nhói sâu âm thầm giục giã, mà đến một lúc nào đó, anh nhận ra mình chưa đủ. Cái người đánh thức niềm sâu thẳm ấy trong Hajime là một cô bạn học từ hồi cấp I, Shimamoto-san. Những bản nhạc, những ly cocktail mang hương vị đặc biệt của quán bar Robinet's, quá khứ tuổi thơ vấn vít... đã lôi kéo Hajime ra khỏi vòng quay thường nhật để tìm ý nghĩa của cuộc đời mình.
Và Hajime đã yêu, yêu một người chỉ duy nhất có cái tên và tình bạn thời quá khứ hơn 20 năm. Khó mà lý giải điều gì đã khiến một người đàn ông đầy chuẩn mực với gia đình và công việc như Hajime đã lần lượt cởi trói những gì đang bó buộc mình. Phải chăng đó là sự mong manh giữa một người phụ nữ quá mơ hồ đến cùng những lời hẹn "có lẽ", "có thể", "một khoảng thời gian nữa"? Phải chăng anh yêu cô như muốn tìm lại quá khứ của chính mình? Phải chăng anh đang muốn kiếm tìm lời lý giải về ranh giới giữa thực và hư?
Rốt cuộc thì bao sốt ruột chờ trông mong mỏi của Hajime cũng được đền bù thoả đáng khi họ cùng trốn gia đình để đến với nhau, bất chấp chuyện gì xảy ra. Rốt cuộc thì cả hai lần đầu tiên được yêu nhau như người đàn ông yêu một người đàn bà. Rốt cuộc thì cả hai đã tìm ra sự hòa hợp hoàn hảo của cơ thể... Nhưng ngay cả ở chốn tưởng như đã là tận cùng đó, họ vẫn không thể đến được với nhau.
Không phải Hajime mà tất cả những người phụ nữ trong cuốn sách này đều bọc mình trong lớp màn bí ẩn. Đằng sau tình yêu trong veo của cô gái Izumi là một mối hận khiến cô trở thành vô cảm. Đằng sau cô vợ Yukiko ngọt ngào và xinh đẹp là một lần tự tử hụt cùng những nỗi đau dẳng dai bên mình. Còn đằng sau Shimamoto-san là một thứ gì mà không ai có thể chạm tới được...
Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời là cuốn tiểu thuyết chứa đụng nhiều nhất con người thật của Haruki Murakami, và là câu chuyện đơn giản nhất mà Murakami từng kể. Tuy vậy, đơn giản không có nghĩa là dễ hiểu, và một lối kể chuyện giản dị không loại bỏ những nỗ lực kín đáo trong việc thoát ra khỏi những lối đi văn chương đã cũ mòn.
"Sự kết nối" dễ thấy giữa Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời và những tác phẩm khác của Murakami có lẽ là năng lực đặc biệt của nhà văn Nhật Bản đối với cách tạo ra và xử lý cái bí ẩn. Không có mật độ dày đặc như trong Biên niên ký chim vặn dây cót hay Kafka bên bờ biển, cái bí ẩn ở đây giống như những đoạn nhạc jazz biến tấu ngẫu hứng trên nền của những bản nhạc cũ, và chính là cái để lại dư vị lâu nhất cho người đọc.
Kafka bên bờ biển
Tên tác phẩm: Kafka bên bờ biển Tác giả: Haruki Murakami Dịch giả: Dương Tường Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Công ty văn hoá và truyền thông Nhã Nam
Những chương lẻ kể cho ta nghe câu chuyện về Kafka Tamura, một cậu bé mười lăm tuổi trong đầu luôn văng vẳng lời thúc dục của một bản ngã tên Quạ.
Cậu sống cùng cha sau khi mẹ và chị gái bỏ đi. Nhưng giữa hai cha con dường như chẳng có một mối liên hệ nào ngoài AND di truyền và lời nguyền độc địa của người cha: mày sẽ ngủ với mẹ và chị gái của mình sau khi giết cha. Vừa chạy trốn lời nguyền và cuộc sống bên người cha, vừa đi tìm chị gái và mẹ, cậu chất đầy đồ dùng cá nhân vào một ba lô, cầm trong tay một thẻ ATM và rời khỏi ngôi nhà lạnh lẽo.
Sau hành trình dài, Kafka dừng chân ở Takamatsu và đắm mình trong những tác phẩm lớn như Nghìn lẻ một đêm, tuyển tập của Natsume Soseki...tại thư viện tư của dòng họ Komura. Thế nhưng việc đọc sách trong yên bình của cậu bị cắt ngang bởi một sự kiện kỳ bí. Cậu đột ngột ngất đi và khi tỉnh dậy, thấy áo quần mình thấm đầy máu. Kafka buộc phải nhờ tới sự trợ giúp của một cô gái trẻ mà cậu tự gọi tên là Sakura – người cậu luôn luôn băn khoăn liệu có phải là chị gái của mình. Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của Oshima, người làm tại thư viện, cậu được nhận việc tại đây và hàng ngày gặp gỡ người phụ nữ hơn năm mươi Miss Saeki. Một mặt, Kafka luôn trăn trở Miss Saeki có phải là mẹ mình, mặt khác cậu đem lòng yêu thương linh - hồn - sống thuở mười lăm của Miss Saeki đêm đêm tìm về phòng cậu. Đang chới với giữa hai bờ hiện thực và huyền ảo, quá khứ và thực tại, Kafka nhận tin cha cậu đã bị giết chết vào đêm cậu ngất đi. Đó cũng là lúc câu hỏi đầy ám ảnh dấy lên trong lòng cậu thiếu niên mười lăm tuổi: có phải lời nguyền đã ứng nghiệm?
Những chương chẵn là câu chuyện về người đàn ông lục tuần Nakata. Sau một tai nạn kỳ lạ từ thuở nhỏ, cậu bé Nakata đánh mất trí nhớ cũng như khả năng đọc, viết, nhưng bù lại, cậu có khả năng nói chuyện với mèo. Từ đó, bên cạnh số tiện trợ cấp ít ỏi, Nakata trang trải cho cuộc sống đơn độc của mình bằng nghề tìm mèo lạc. Và chính nghề nghiệp kỳ lạ này đã mở ra cuộc hành trình định mệnh của Nakata, sau khi ông buộc phải đâm chét con quỷ giết-mèo-hàng-loạt hiện hình dưới nhân dạng Johnnie Walker. Cùng môn đệ Hoshino vốn là một tài xế xe tải, Nakata đã tìm đến Takamatsu, truy tìm và mở phiến đá cửa vào bí ẩn...
Với Kafka bên bờ biển, độc giả một lần nữa được gặp gỡ dịch giả Dương Tường, người từng được biết đến qua những bản dịch thành công như Đồi gió hú, Con người hoan lạc, Mặt trời nhà Scorta...và giờ đây là Kafka bên bờ biển.
Không khó khăn gì để nhận ra được tác phẩm của Murakami mang dáng dấp của một bi kịch Hy Lạp hiện đại, một nỗi ám ảnh đã được nhiều nhà tâm lý học gọi ra là mặc cảm Eudipe. Kafka là cậu bé mới mười lăm tuổi, nhưng cậu mang trong mình thế giới những nỗi đau khổ và dằn vặt của nhiều kiếp người. Luôn luôn sợ hãi lời nguyền rủa đầy thù hằn của cha: Mi sẽ giết cha mi và ngủ với chị và mẹ. Câu chuyện về Eudipe trong thần thoại đã quay lại một cách trực tiếp, như một nỗi ám ảnh không ngừng của con người: giết cha và loạn luân. Trong một bài phỏng vấn, Murakami nói rằng ông không hề nghĩ tới câu chuyện thần thoại kia khi bắt đầu cuốn sách, ông chỉ muốn nói về một cậu bé mười lăm tuổi bỏ khỏi ngôi nhà chỉ có người cha lạnh lùng để đi tìm mẹ. Nhưng rồi sau đó, ông chợt nhận ra câu chuyện của mình có sự tương đồng với câu chuyện của Eudipe. Và ông khẳng định rằng mọi sáng tác của các nhà văn đều có một liên hệ nhất định với những thần thoại cổ đại.
Cuốn sách cũng là một thế giới của hàng trăm điều kỳ ảo. Ở nơi đó, ranh giới giữa thực và mơ, giữa quá khứ và hiện tại không có sự phân biệt. Và những điều bí ẩn nhất, mơ màng nhất, đáng sợ nhất trong sự kỳ quặc siêu nhiên thường xuyên xảy tới, khiến cho nhân vật của Murakami dường như không ngừng kinh ngạc. Giải thích về điều này, nhà văn nói rằng: Với ông, việc sáng tác ra một cuốn tiểu thuyết giống như đang mơ khi ông vẫn thức, ông có thể mơ tiếp giấc mơ của ngày hôm qua, có thể mơ cả đời.
Nhân vật trong Kafka bên bờ biển , đa phần, đều có nhiều nét dị thường thường. Kafka quá khác so với tuổi mười lăm, cậu như đã sống từ trước đó rất lâu và giờ mới đang quay trở lại thế giới. Cuộc đời Nakata là một chuỗi bí ẩn này sang bí ẩn khác. Oshima là một người có giới tính không rõ ràng. Miss Saeki có tài năng thiên phú, phong thái cao quý nhưng thế giới nội tâm đầy đau khổ và đang héo mòn… Đó là một nét phong cách đặc trưng của Murakami. Những con người trong trang sách của ông không phải là những người nổi bật trong cuộc sống, vị thế của họ không có gì là cao cả và khiến tất cả phải kinh hãi hay ngước nhìn, nhưng họ luôn luôn khác thường. Sự khác thường của họ ẩn trong thế giới nội tâm đầy phức tạp, trong những biến đổi kỳ quặc tới với họ - và điều đó có nghĩa: nó sẽ tới với bất cứ ai trong chúng ta.
Cách kể chuyện song đôi của Murakami trong Kafka bên bờ biển là một trong những nét đặc biệt khi so sánh tác phẩm này với những tác phẩm khác của ông đã được xuất bản tại Việt Nam. Câu chuyện về cậu bé tự gọi mình là Kafka và Nakata như hai con sông nhỏ tách rời và hợp lại ở cuối truyện với điểm nối là Miss Saeki. Nakata là một thấu kính nhìn rõ được mọi điều, còn Kafka là người luôn lạc trong thế giới huyền hoặc. Và rồi cái chết của người này như dấu hiệu cho một cuộc sống “mới toanh” của người khác. Khả năng tư duy sáng tạo này cho người đọc thấy được Murakami không bao giờ là cũ.
---------------------- . ----------------------
Murakami: ‘Nhiều người nghĩ tôi là kẻ cuồng sex’
Larry McCaffery
Với những tiểu thuyết như Rừng Nauy, Biên niên ký chim vặn dây cót …, tên tuổi của Haruki Murakami đã vượt khỏi biên giới Nhật Bản. Dưới đây là cuộc phỏng vấn với Murakami về sáng tác, sex và cuộc sống của một nhà văn Nhật nổi tiếng ở phương Tây.
- Trong các bản kê khai tiểu sử, ông cho biết mình từng làm chủ một quán nhạc jazz trong nhiều năm. Tác phẩm của ông cũng có mối liên hệ với thể loại âm nhạc này. Nhạc jazz ảnh hưởng như thế nào đến các trang viết của ông?
- Một cách không chủ định. Jazz chỉ là sở thích riêng của tôi. Đúng là tôi từng nghe jazz 10 tiếng một ngày trong nhiều năm nên có thể tôi chịu ảnh hưởng sâu sắc: nhịp điệu, sự ngẫu hứng, thanh âm và phong cách. Việc quản lý một câu lạc bộ jazz có lẽ cũng tác động trực tiếp đến quyết định viết văn của tôi. Một buổi tối, tôi nhìn xuống quán bar và chứng kiến một số lính Mỹ da đen khóc vì nhớ quê nhà.
Trước đó, ở tuổi lên 10 hay 12, tôi đã chìm ngập trong nền văn hóa phương Tây - không chỉ có jazz mà còn cả Elvis và Vonnegut. Tôi nghĩ, việc tôi tìm đến những loại hình văn hóa này là một biểu hiện nổi loạn chống lại cha tôi (ông là giáo viên văn học Nhật) và những tư tưởng Nhật Bản chính thống. Từ lúc 16 tuổi, tôi không đọc tiểu thuyết Nhật Bản nữa mà tìm đến những nhà văn Nga và Pháp như Dostoyevsky, Stendhal và Balzac qua các bản dịch. Sau 4 năm học tiếng Anh ở trường phổ thông, tôi bắt đầu đọc văn học Mỹ tại các hiệu sách cũ. Nhờ đọc tiểu thuyết Mỹ, tôi thoát khỏi nỗi cô đơn của chính mình để được lạc vào một thế giới khác. Ban đầu tôi cảm thấy như mình đang chu du sao Hỏa lần đầu tiên, nhưng dần dà tôi thấy dễ chịu.
Nhưng tối hôm đó, khi chứng kiến những người Mỹ da đen khóc, tôi nhận ra, dù tôi có yêu nền văn hóa phương Tây bao nhiêu đi nữa, thì nó vẫn là cái gì đó ý nghĩa với những người lính này hơn là với tôi. Đó là nguyên nhân khiến tôi quyết định cầm bút.
- Ông thường vạch ra đề cương khi bắt đầu cuốn tiểu thuyết để biết câu chuyện sẽ đi đến đâu hay dùng cách khác?
- Tôi thường bắt đầu với một cái gì đó mà tôi không biết sẽ phải xử lý câu chuyện về nó như thế nào. Nên tôi chỉ viết dần dà chương thứ nhất, rồi chương thứ hai và cứ thế. Tôi không biết trước là chuyện gì sẽ xảy ra, dường như là nó tự ập đến.
- Cuốn tiểu thuyết “Rừng Nauy” mở ra cảnh một người đàn ông ngồi trên máy bay, rồi sau đó, toàn bộ cuốn tiểu thuyết hiện ra theo hồi tưởng. Đây chắc không phải là cảnh đầu tiên hiện ra khi ông bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết này?
- Vâng, đó thực sự không phải là cảnh đầu tiên khi tôi bắt đầu. Rừng Nauy là tiểu thuyết mở rộng từ một truyện ngắn. Triển khai thành cuốn tiểu thuyết giúp tôi khám phá ra những gì xảy đến với 6 nhân vật của cuốn sách: 3 người chết và 3 người sống sót. Nhưng tôi không biết ai chết và ai sẽ sống. Một trong những thú vui viết lách của tôi là tìm hiểu xem chuyện gì sẽ xảy ra. Mất sự hứng thú này, công việc cầm bút sẽ không còn ý nghĩa.
- Nhiều tiểu thuyết của ông được phát triển từ các truyện ngắn. Khi viết xong những truyện ngắn này, ông có ý thức rằng mình chưa kết thúc, vẫn còn điều gì đó phải viết, hay là phải mất một thời gian sau, vì một nguyên cớ nào đó, ông mới quay lại với câu chuyện và nhận ra: “Hừm, bây giờ mình hãy nghĩ xem, mình có thể làm gì thêm với nguyên liệu này”?
- Phải mất một thời gian nhất định tôi mới nhận ra rằng mình chưa thực sự kết thúc một truyện ngắn nào đó. 3-4 hoặc thậm chí là 6 đến 7 năm. Chỉ đến lúc đó, tôi mới ý thức được tác phẩm chưa hoàn thành, tôi cần phải viết một phiên bản dài hơn. Nhưng không phải tất cả các cuốn sách của tôi đều được thực hiện theo cách này. Ví như, tôi viết A Wild Sheep Chase (Một cuộc săn cừu hoang) như một cuốn tiểu thuyết ngay từ khi bắt đầu.
- Toàn bộ tiểu thuyết của ông đều viết từ ngôi thứ nhất. Có bao giờ ông có ý định viết truyện không bằng ngôi thứ nhất?
- Có, trong một lúc nào đó, tôi đã thử trần thuật từ ngôn thứ ba, nhưng không hiệu quả.
- Do nó không tạo sự hấp dẫn hay giọng kể không ổn?
- Khi viết từ ngôi thứ ba, tôi có cảm giác mình như Chúa trời. Mà tôi không thích làm Chúa trời. Tôi không thể biết tuốt, không thể viết về tất cả mọi thứ. Tôi chỉ là chính mình thôi. Tôi viết cái gì đó từ chính bản thân mình. Tôi không có ý nói tôi là nhân vật chính nhưng tôi phải mường tượng được những gì nhân vật chính của mình chứng kiến và trải nghiệm. Viết giúp tôi khám phá tiềm thức của bản thân. Đó cũng là quá trình tôi kể chuyện. Đó cũng là điều hấp dẫn nhất mà tôi từng làm. Với tôi, kể một câu chuyện cũng giống như là những gì xảy ra khi xuống phố. Tôi yêu đường phố nên mỗi khi xuống đường, tôi quan sát, nghe và cảm nhận mọi thứ. Khi làm như vậy, bạn sẽ cảm nhận sự thay đối của thế giới theo một cách thức riêng.
- Nhiều nhà phê bình Mỹ và Nhật cho rằng, tác phẩm của ông không mang tính Nhật Bản. Ông nghĩ sao?
- Với tôi, những ý kiến coi tác phẩm của tôi không mang tính Nhật Bản là rất hời hợt. Tất nhiên, tôi coi mình là một nhà văn Nhật. Tôi có thể viết theo phong cách khác, nguyên liệu khác nhưng tôi viết bằng tiếng Nhật, viết cho xã hội và con người Nhật Bản. Nên tôi nghĩ là mọi người đã sai khi liên tục cho rằng phong cách của tôi bị ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây. Như tôi vừa nói, ban đầu, tôi muốn trở thành một nhà văn quốc tế, nhưng rốt cuộc, tôi nhận ra rằng, mình chẳng là gì cả, mà chỉ là một nhà văn Nhật. Ngay từ đầu, tôi đã không chỉ vay mượn phong cách và nguyên tắc sáng tác của phương Tây. Tôi muốn thay đổi nền văn học Nhật Bản từ bên trong chứ không phải bằng hình thức bên ngoài. Nên tôi đã tự thiết kế ra nguyên tắc của riêng mình.
- Độc giả, đặc biệt là giới trẻ Mỹ phản ứng thế nào với các tác phẩm của ông?
- Tôi thấy rất thích thú khi tới thăm các trường đại học tại Mỹ và được biết sinh viên rất quan tâm đến văn hóa và văn học Nhật. Điều tôi chú ý là họ tìm đến một tác phẩm văn học đương đại Nhật Bản đơn thuần vì đó là một cuốn tiểu thuyết chứ không phải vì nó là tiểu thuyết Nhật. Họ đọc sách của tôi, hay sách của Amy Yamada và Banana Yoshimoto cũng như đọc García Márquez, Vargas Llosa và những tác giả Mỹ Latin khác vài năm trước đây. Các nhà văn đến từ nhiều quốc gia đang dần dà thay đổi nhau và tìm thấy độc giả toàn cầu một cách dễ dàng hơn. Đây là một thế giới nhỏ bé và ngày càng trở nên nhỏ bé hơn. Tôi nghĩ đấy là điều tuyệt vời.
- Philip K. Dick là nhà văn có những ảnh hưởng đến các tác phẩm của ông, đặc biệt là “Dance Dance Dance”. Ông đọc tác giả này từ sớm hay mới đọc thời gian gần đây?
- Thực ra tôi không phải là độc giả lớn của Philip K. Dick. Mọi người đều đánh giá ông là nhà văn vĩ đại. Nhưng tôi chỉ mới đọc 2 hay 3 tác phẩm của ông. Tôi thích Vonnegut và Stephen King hơn. Tôi cũng thích những nhà văn Mỹ khác như Tim O'Brien và John Irving hay những tác giả Mỹ Latin như García Márzquez và Borges.
- Khi đọc phần lớn những tiểu thuyết có cảnh sex, tôi nhận ra rằng, khi ông miêu tả sex, tác phẩm thường xuất hiện một đường nối, một khoảng đứt gãy mà dường như cuốn sách trở thành một thứ gì đó khác, sau đó mới trở về với đoạn bỏ dở trước đó. Nhưng trong “Rừng Nauy”, sex được miêu tả rất phù hợp với các yếu tố khác, rất tự nhiên và thuyết phục. Ông nghĩ sao?
- Ồ, cảm ơn. Nhiều độc giả lại cảm thấy khó chịu vì những cảnh sex trong Rừng Nauy. Tôi không hiểu tại sao, nhưng những trang miêu tả tình dục đã khiến cho nhiều người bối rối, ngay cả ở Nhật Bản. Nên nhiều người nghĩ tôi là kẻ khiêu dâm, thậm chí là kẻ cuồng sex (cười). Nhưng tất nhiên, tôi không phải như vậy. Tôi thích miêu tả tình dục vì nó là một phần rất quan trọng của cuộc sống.
- Tại sao ông lại sang Mỹ sống?
- Tôi từng sống ở châu Âu trong 3 năm, hầu hết là ở Hy Lạp và Italy, khoảng giữa đó là 1 năm sống ở Nhật Bản. Tôi rời khỏi Nhật Bản vì thành công mà những cuốn tiểu thuyết mang lại khiến tôi khó mà sống và viết ở quê hương. Tôi đã trở thành người nổi tiếng - một điều rất phiền toái. Rồi tôi nhận thấy, châu Âu là một địa điểm lý tưởng - ở đây đẹp và thú vị - nhưng cũng không phải là nơi thích hợp để làm việc. Ở Italy, phần lớn người dân là người Italy; ở Hy Lạp thì chủ yếu là người Hy Lạp, nên tôi luôn cảm thấy mình là người ngoại quốc, ngoài cuộc và xa lạ. Sống ở Mỹ, tôi không có cảm giác đó. Điều tôi thích khi sống ở Mỹ là tôi cảm thấy được tự do. Tôi thấy như mình cũng là một người Mỹ, nên dễ dàng tiếp xúc và làm bạn với mọi người. Tôi có thể tập trung vào công việc sáng tác bởi ở đây, tôi không phải là người nổi tiếng. Không ai quan tâm đến tôi cả .

TRUYỆN NGẮN HARUKI MURAKAMI

GIÁNG SINH CỦA NGƯỜI CỪU
Murakami Haruki là nhà văn nổi tiếng của Nhật Bản. Shame North nhận xét: "Murakami bắt đầu nơi mà Camus đã từ bỏ. Các nhân vật của ông theo chủ nghĩa hư vô, nhưng họ chọn lựa cuộc sống theo màu sắc huyền bí, khước từ và xa lánh những suy luận logic thông thường". Xin được giới thiệu tác phẩm Giáng sinh của Người Cừu của ông do Hoàng Long dịch.
Đang lúc giữa mùa hè, Người Cừu được yêu cầu phải viết vài khúc nhạc Giáng Sinh. Cả Người Cừu và thanh tra cừu, đến để yêu cầu Người Cừu phải đảm trách việc sáng tác nhạc, lúc đó mồ hôi mồ kê đầm đìa trong bộ trang phục cừu mùa hè. Mùa hè càng kéo dài chừng nào thì Người Cừu càng khổ chừng nấy vì anh ta chỉ là một chú cừu nghèo và không thể sắm nổi một chiếc máy điều hòa nhiệt độ. Khi cái quạt quay tròn phành phạch xung quanh, tai của hai gã cừu ve vẩy nhẹ nhàng trong cơn gió nhẹ.
- Chúng tôi, Hội đồng Người Cừu - Vị thanh tra cừu vừa bắt đầu nói vừa thả lỏng cổ áo cho cái quạt thổi gió vào - Mỗi năm chúng tôi chọn một chú cừu đã được trời ban phước cho một tài năng âm nhạc phi thường, để sáng tác một bản nhạc vinh danh vị bảo trợ thần thánh nhất, vị Thánh Cừu. Bản nhạc này sẽ được trình diễn trong ngày giáng sinh. May mắn thay là năm nay anh đã được chọn.
- Ồ tôi hiểu. Người Cừu nói. - Đặc biệt, năm nay là lễ kỷ niệm 2.500 năm ngày vị thánh qua đời, do đấy mà chúng tôi thật sự mong muốn có một bản nhạc thật hoành tráng, thích hợp với sự kiện linh thiêng này - Vị thanh tra kết luận.
- Tôi hiểu, tôi hiểu. Người Cừu nói và gãi gãi đôi tai.
- Vẫn còn bốn tháng rưỡi nữa mới đến Giáng Sinh kia mà - Người Cừu nghĩ thầm - Với thời gian dài như thế, chắc chắn mình sẽ sáng tác được vài bản nhạc cừu tuyệt diệu.
- Tôi rất vui được đảm trách công việc này. Xin ông cứ tin tưởng tôi - Người Cừu đáp lời, ngực anh ta dâng lên niềm hãnh diện - Chắc chắn tôi sẽ gắng hết sức mình để viết một bản nhạc cừu xuất sắc.
Tháng chín đã trôi qua, rồi tháng mười, tháng mười một cũng thế mà sao Người Cừu vẫn chưa thể bắt đầu viết nhạc theo yêu cầu của Hội đồng Người Cừu. Bởi vì Người Cừu làm việc trong một cửa hàng bánh rán gần đó nên anh ta cũng có ít thời gian dành cho công việc sáng tác. Hơn thế, mỗi khi Người Cừu bắt đầu dạo nhạc bằng chiếc piano cũ kỹ xập xệ của mình, vợ của người chủ nhà kiêm chủ tiệm cơm trọ lúc nào cũng mò đến và gõ cửa.
- Thôi ngay cái trò ồn ào đó đi. Tôi không thể nào mà xem tivi được cả.
- Tôi thật sự xin lỗi. Nhưng bởi vì tôi phải viết xong bản nhạc này trước Giáng Sinh nên bà có thể chịu đựng thêm một chút nữa được không ạ?. Người Cừu ngoan ngoãn nói.
- Anh nói điều ngu ngốc gì vậy? - Bà vợ chủ nhà tức điên người - Nếu không thích thì anh có thể rời khỏi đây ngay lập tức. Chúng tôi để cho những người lập dị như anh sống ở đây không có nghĩa là anh có thể cười nhạo báng chúng tôi đâu nhé. Nếu chuyện này là vấn đề đối với anh thì thật là tệ quá.
Người Cừu nhìn chăm chú vào tấm lịch với cảm giác hãi hùng. Cho dù chỉ còn một tháng ngắn ngủi nữa là đến Giáng Sinh, nhưng do không thể chơi piano nên Người Cừu vẫn chưa viết được một nhịp nhạc nào cho bài ca đã hứa.
Một ngày, Người Cừu ngồi nơi công viên, ăn bánh rán với vẻ mặt lúng ta lúng túng, thì anh ta gặp một giáo sư Cừu đi ngang qua.
- Có chuyện gì vậy, hỡi chú Cừu thân mến của tôi? - Vị giáo sư hỏi thăm.
- Tôi mệt mỏi quá. Dù cho Giáng Sinh đang đến gần mà tôi vẫn có điều muộn phiền khó chịu. Có thể nói rằng Giáng Sinh là một phần của vấn đề đấy. Người Cừu bắt đầu nói và trút hết bầu tâm sự cho vị giáo sư cừu.
- Hừm - giáo sư cừu nói, và đưa tay vuốt râu - Nếu là trường hợp đó thì tôi nghĩ mình có thể giúp chú được.
- Thật vậy ư? - Người Cừu hoài nghi hỏi lại. Bởi vì giáo sư cừu đã dành cả đời mình chỉ để nghiên cứu những vấn đề liên quan đến cừu nên dân quanh vùng nghi ngờ rằng vị giáo sư này có đầu óc hơi không được bình thường.
- À, thật sự đấy - Giáo sư cừu đáp lời - Hãy đến nhà tôi vào lúc sáu giờ tối nay. Tôi sẽ chỉ cho chú những phương pháp và kỹ thuật sáng tác xuất sắc. À nhưng mà này, tôi có thể ăn một cái bánh rán vàng rộm này chứ?
- Vâng, dĩ nhiên rồi. - Người Cừu nói và hơi bực mình trong thâm tâm - Dạ đây ạ. Và họ ngồi bên nhau trên chiếc ghế đá công viên, cùng nhai bánh rán.
Buổi tối đó, Người Cừu ghé thăm nhà của vị giáo sư cừu, mang theo một gói sáu cái bánh rán vàng ươm làm quà tặng. Đó là một căn nhà gạch cũ kỹ và những đám cây bụi xung quanh được cắt tỉa thành hình những chú cừu. Cả cái chuông cửa, hai cái cột cổng, những phiến đá lót đường đều có hình cừu. Người Cừu nghĩ thầm: "Chà, tay này tôn sùng cừu như bò thần"[1].
Vị giáo sư Cừu ngấu nghiến ăn ngay bốn cái bánh rán trong vòng chưa đầy một làn hơi thở. Còn hai cái bánh kia, ông ta đặt trong tủ chén như thể chúng quan trọng lắm. Cuối cùng ông ta đưa lưỡi liếm láp các ngón tay, rồi nhặt nhạnh các mảnh bánh vụn rải rác trên bàn, dùng lưỡi liếm láp mấy ngón tay cho sạch.
- Chắc thằng cha này thích bánh rán lắm đây - Người Cừu khá có ấn tượng và nghĩ thầm như thế.
Sau khi những ngón tay đã sạch tinh, vị giáo sư cừu lấy trên giá sách xuống một quyển sách lớn. Trên bìa sách có in "Lịch sử của Người Cừu".
- Này cậu Cừu - vị giáo sư bắt đầu trịnh trọng - Trong quyển sách này có viết tất cả những điều khả thức[2] liên quan đến Người Cừu đấy. Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu lý do tại sao cậu lại không thể viết được một khúc nhạc cừu nào cả.
- Nhưng thưa giáo sư, tôi đã biết được lý do rồi ạ. Đó là bởi vì bà chủ nhà không cho tôi dạo piano - Người Cừu nói - Nếu như tôi có thể chơi được piano…
- Tầm bậy - Vị giáo sư cừu nói và lắc đầu - Cho dù cậu có thể chơi được piano thì cậu cũng chẳng thể nào sáng tác được bản nhạc nào đâu. Nguyên nhân sâu xa hơn nằm ở trong đây này.
- Thế đó là gì vậy? - Người Cừu hỏi.
- Đó là do cậu đã bị nguyền rủa - Vị giáo sư cừu nói và cau mặt lại.
- Bị nguyền rủa ư?
- Đúng vậy đấy - vị giáo sư cừu gật gù liên tục -Vì bị nguyền rủa nên cậu không thể chơi piano cũng như sáng tác nhạc được.
- Ôi - Người Cừu rên rỉ - Nhưng tại sao ông cho là tôi bị nguyền rủa? Tôi có làm hại ai bao giờ đâu?
Vị giáo sư cừu lật lật mấy trang sách một cách khéo léo.
- Có lẽ cậu đã nhìn lên mặt trăng vào đêm rằm tháng sáu?
- Không. Từ năm năm nay tôi có thấy mặt trăng bao giờ đâu.
- A, nếu vậy thì cậu đã ăn một cái gì có lỗ vào đêm Giáng Sinh năm ngoái?
- Tôi ăn bánh rán vào mỗi bữa tối. Tôi không thể nhớ chính xác là tôi đã ăn loại bánh rán nào vào đêm Giáng Sinh năm ngoái, nhưng tôi khá chắc chắn rằng tôi đã ăn bánh rán.
- Trong bánh rán có lỗ chứ?
- Vâng, tôi hình dung là vậy. Ý tôi muốn nói là hầu như tất cả bánh rán đều có lỗ cả.
- Chính là vì thế đấy - Vị giáo sư cừu nói, gật đầu quả quyết - Kết quả của chuyện ấy là cậu đã bị nguyền rủa. Chắc một giáo viên cừu nào phải nói với cậu là không ăn những thức ăn có lỗ thủng vào đêm Giáng Sinh rồi chứ?
- Tôi chưa từng nghe thấy điều này bao giờ - Người Cừu ngạc nhiên nói - Đó hoàn toàn là sự thực đấy à?
- Cậu chẳng biết gì về Ngày lễ của vị thánh cừu cả… Thật quá sửng sốt - Vị giáo sư đáp lời, thậm chí ông còn ngạc nhiên hơn Người Cừu nữa - Lũ trẻ bây giờ quả thật chẳng biết gì hết. Bộ người ta không dạy cậu những điều này ở Trường Cừu trước khi cho cậu làm lễ thành Người Cừu hay sao?
- À, tôi đoán là có chứ. Nhưng chắc do tôi học hành cũng chẳng giỏi giang gì lắm - Người Cừu nói, gãi gãi đầu.
- Nhìn đây này. Tai hoạ này giáng xuống bởi vì cậu là một con cừu vô cùng bất cẩn. Cậu phải tự chịu trách nhiệm lấy. Tuy nhiên - vị giáo sư cừu tiếp tục - Bởi vì cậu đã mang bánh rán đến cho tôi nên tôi sẽ chỉ dẫn cho cậu. Ngày hai mươi tư tháng mười hai là ngày Giáng Sinh, cũng là ngày lễ của vị Thánh cừu. Vào ngày này, khi vị Thánh cừu tối linh đang đi dạo trên đường lúc nửa đêm, Ngài đã rơi xuống một cái hố và qua đời. Vì thế mà ngày này rất linh thiêng. Do đó, việc ăn thực phẩm có lỗ thủng bên trong vào ngày này đã d-ứ-t kh-o-á-t bị cấm từ thời xa xưa. Những loại thức ăn như mỳ ống, pho mát Thụy Sĩ, bánh rán, những lát hành tây và dĩ nhiên là những khoanh bánh mì có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng đấy.
- Xin thứ lỗi cho tôi nhưng vị Thánh cừu tối linh lang thang trên đường lúc nửa đêm để làm gì vậy? Và tại sao lại có một cái hố giữa đường?
- Tôi không được biết câu trả lời. Những sự kiện đó xảy ra từ 2.500 năm trước, vì thế nên chúng ta không thể biết được nguyên do. Nhưng dù sao điều luật đã được quy định từ lúc ấy. Đó là một điều luật bất khả xâm phạm. Dù cậu có biết hay không nhưng sự vi phạm sẽ dẫn đến hậu quả là sự rủa nguyền sẽ giáng xuống cậu. Một khi đã bị nguyền rủa, cậu không còn là Người Cừu nữa. Cũng chính lý do này đã làm cậu không thể sáng tác nhạc cừu được. Đúng như vậy đấy.
- Tôi thật là thằng ngu ngốc quá - Người Cừu yếu ớt nói - Có cách nào để hóa giải lời nguyền rủa này không ạ?
- Hừm - Vị giáo sư cừu nói - Có một cách nhưng tôi sợ là sẽ chẳng dễ dàng gì đâu. Nhưng có cách làm là được rồi, phải không?
- Tôi chẳng quan tâm. Tôi sẽ làm bất cứ cái gì có thể được. Làm ơn chỉ bảo cho tôi.
- Cái cách phải làm là cậu phải rơi xuống một cái hố.
- Hố à? - Người Cừu nói - Cái hố à, chính xác là cái hố như thế nào? Cái hố nào cũng được ư?
- Đừng ngu ngốc thế. Không phải cái hố nào cũng được đâu. Kích thước và chiều sâu cần thiết của hố để hoá giải lời nguyền được quy định rất rõ ràng. May mắn là nó khá nhỏ. Tôi sẽ cố gắng tìm cho cậu bây giờ.
Vị giáo sư cừu lấy ra một quyển sách rách nát có tựa "Huyền thoại về vị Thánh cừu tối linh" và lật lật qua trang.
- À, Hừm… Đây rồi. Trong đây có nói rằng vị Thánh cừu tối linh đã ngã xuống một cái hố đường kính hai mét và chiều sâu hai trăm lẻ ba centimet rồi Ngài qua đời. Vì thế, chúng ta sẽ phải làm một cái hố có kích cỡ tương đương.
- Nhưng tôi không thể tự mình đào một cái hố sâu như thế. Với lại, nếu té xuống một cái hố như vậy, tôi sẽ chết trước khi lời nguyền được hủy bỏ còn gì?
- Đợi chút đã. Trong đây có viết thêm là khi cố gắng hóa giải lời nguyền thì chúng ta có thể giảm chiều sâu xuống một phần một trăm cũng không sao. Vì thế mà cậu có thể đào một cái hố đường kính hai mét và chiều sâu ba cen-ti-mét cũng được.
- Ồ, tốt quá. Nếu chỉ thế thì tôi sẽ đào được. Không thành vấn đề - Người Cừu thanh thản nói.
Người Cừu mượn vị giáo sư cừu quyển sách và mang về nhà. Trong sách có viết hằng hà sa số những điều luật, giải pháp phải làm để hóa giải những bùa mê. Người Cừu cố gắng viết ra từng điểm một. (1). Cái hố phải được đào bằng một cái xẻng làm thủ công bằng gỗ tsuneriko[3]. (Bởi vị thánh cừu có mang một cái gậy bằng loại gỗ này).
(2). Việc té hố phải diễn ra đúng lúc 1 giờ mười sáu phút sáng ngày hai lăm tháng mười hai (Bởi vì vị thánh cừu té hố vào thời điểm này).
(3). Vào thời điểm té hố, phải mang theo thực phẩm không có lỗ thủng làm thức ăn nhẹ.
Điều luật (1) và (2) thì được rồi, và ngay cả điều luật liên quan đến chiều cao của quãng rơi cứ cho là có ý nghĩa đi nữa, nhưng Người Cừu thật không thể hiểu nổi sự cần thiết phải có một bữa ăn nhẹ.
- Thật lạ lùng - Người Cừu thầm nghĩ - Nhưng mình đoán tốt hơn hết là cứ làm theo những cách viết nơi đây.
Chỉ còn ba ngày nữa là đến Giáng Sinh. Trong ba ngày ngắn ngủi này, Người Cừu phải làm một cái xẻng làm bằng gỗ tsuneriko và đào một cái hố có đường kính hai mét và chiều sâu hai mét ba cm.
- Những điều xảy ra thật quá lạ lùng - Người Cừu nói và thở dài.
Người Cừu vào rừng tìm một cây gỗ tsuneriko, chặt lấy một cành nhỏ. Chỉ trong một ngày, anh ta đẽo thành một cái cán xẻng. Ngày hôm sau, Người Cừu bắt đầu đào một cái hố ở cái sân phía sau nhà.
Trong khi Người Cừu đào hố, bà chủ nhà đã phát hiện ra.
- Này cậu, cậu đào hố làm gì thế? - bà chủ nhà gặng hỏi.
- Tôi đào hố để đổ rác thôi mà - Người Cừu đáp - Tôi nghĩ nó sẽ rất tiện dụng đấy.
- Ồ, vậy à? Nhưng nếu cậu thử làm cái gì khác thường là tôi sẽ gọi cảnh sát đấy - bà chủ nhà khinh miệt nói. Sau đó, bà ta quay ngoắt người đi mất.
Sử dụng một cái thước đo, Người Cừu cẩn thận đo chính xác từng chi tiết của cái hố đang đào cho đúng với đường kính và chiều sâu.
- Ta phải làm thế thôi - Người Cừu thầm nói và che một miếng gỗ trên mặt hố.
[1] Trong bản tiếng Anh chỉ là “holy cow”, khá tối nghĩa. Chúng tôi dựa vào văn cảnh, dịch như trên. [2] Tạm dịch chữ “conceivable”. [3] Bản tiếng Anh phiên sai thành “tuneriko”. Trong tiếng Nhật không có âm “tu” mà chỉ có âm “tsu”. Vì thế, chúng tôi sửa lại là “tsuneriko”.
Cuối cùng thì cũng đến ngày Giáng Sinh. Người Cừu lấy từ cửa hàng bánh rán mười hai cái bánh rán đủ loại, không có lỗ thủng, và nhét vào một cái ba lô. Đó là bữa ăn nhẹ của Người Cừu. Cuối cùng, anh ta nhét cái ví và một cái đèn pin nhỏ vào túi áo ngực trong chiếc áo vét, rồi kéo dây khoá lại. Vào lúc một giờ sáng, Người Cừu đi lang thang quanh nhà mò mẫm trong bóng đêm. Trời không trăng không sao, tối đến mức mà Người Cừu giơ tay ra cũng không thể nhìn thấy.
- Chắc hẳn vào một đêm tối tăm thế này, vị Thánh cừu tối linh đã rơi xuống hố - Người Cừu lẩm bẩm trong lúc dùng đèn pin kiếm tìm cái hố - Bây giờ sắp là 1 giờ mười sáu phút. Nếu mình không thể tìm được cái hố thì mình phải chờ cho đến tận đêm Giáng sinh năm sau ư? Nếu thế thì kinh khuuuuuuủng quaaaaaá…- Khi chợt nói đến đó, mặt đất dưới chân Người Cừu thình lình biến mất. Và anh ta đã rơi xuống hố.
- Chắc hẳn có ai đó đã mở nắp hố ngày hôm nay - Người Cừu nói trong lúc đang rơi xuống - Mình dám cá chính là mụ chủ nhà hiểm ác. Mụ ta luôn ghét bỏ tất cả những điều mình làm - Nhưng khi nghĩ như thế xong, Người Cừu chợt nhận ra rằng có điều khác thường đang xảy đến - Cái hố mình đào chỉ sâu có hai mét ba cen-ti thôi mà. Sao mà mình rơi mãi vẫn chưa chạm đáy nhỉ?
Và rồi thình lình, nghe một tiếng “thịch”, Người Cừu đã chạm vào đáy hố. Mặc dù cái hố có chiều sâu đáng sợ như vậy, anh ta vẫn hoàn toàn vô sự.
Sau khi lắc đầu vài cái, Người Cừu cố gắng tìm đèn pin để soi chiếu xung quanh và chợt nhận ra rằng đèn pin rơi đâu mất. Anh ta đoán là mình đã đánh rơi nó trong khi đang ngã xuống hố.
- Cái gì vậy, đồ chết tiệt? - Một giọng nói vang lên trong bóng tối - Bây giờ mới là một giờ mười bốn phút. Đến sớm hai phút đó đồ chết tiệt. Chú mày phải leo lên và làm lại từ đầu đấy.
- Thật xin lỗi. Nhưng bởi vì trời quá tối nên tôi không nhìn rõ, và ngẫu nhiên tôi bị rơi xuống cái hố này thôi - Người Cừu nói - Nhưng tôi sợ rằng mình không có cách nào leo lên khỏi cái hố sâu như thế này.
- Chú mày phải làm thôi đồ chết tiệt. Yeeeh, chú mày đến hơi sớm và có thể đè ta bẹp dí đấy. Ta cứ nghĩ là chú mày sẽ đến vào lúc một giờ mười sáu phút, đồ chết tiệt.
Có tiếng quẹt diêm và một cây nến rực sáng. Dáng hình người cầm nến thật là cao lớn. Nhưng dù cao lớn như thế mà bờ vai của ông ta cũng chỉ cao bằng vai Người Cừu thôi. Đầu ông ta rất dài và cong vênh như một cái bánh rán cong queo.
- Nhưng dù sao, đồ chết tiệt. Chú mày cũng nên mang theo bữa ăn nhẹ khi rơi xuống đây chứ - Người Cong queo nói - Bởi vì nếu không làm thế, chú mày sẽ gặp vấn đề rắc rối lắm đấy đồ chết tiệt.
- Dĩ nhiên là tôi có mang theo chứ - Người Cừu căng thẳng nói.
- À, nếu vậy thì đưa đây, đồ chết tiệt. Ta đang đói đây.
Người Cừu mở nắp ba lô, lấy ra từng cái bánh rán cong queo đưa chúng cho Người Cong queo.
- Cái quái gì thế này? - Người Cong queo nhìn vào đống bánh rán và nói - Ngươi thật là ngu ngốc khi mang cho ta những cái bánh rán trông như cái đầu khốn nạn của ta.
- Không, đây chỉ là hiểu lầm thôi - Người Cừu nói, lau mồ hôi trán - Tôi làm việc ở một cửa hàng bánh rán, Ngài thấy đấy, và chỉ có loại bánh rán cong queo này là không có lỗ thủng mà thôi.
- Ah, đồ khốn kiếp, mày lại nói “cong queo” nữa chứ - Người Cong queo nói, khuỵu hai đầu gối xuống. Nước mắt tuôn rơi từ đôi mắt nhăn nhúm - Chỉ bởi vì khuôn mặt mắc dịch này mà ta phải sống dưới đáy cái hố khốn kiếp này và trở thành một tên canh cửa khốn nạn. Thật là đồ chết tiệt.
- Tôi thật là một kẻ quê mùa cục mịch. Tôi gây chuyện hiểu lầm điên rồ mất rồi. Ý tôi muốn nói là "không được phẳng".
- À, quá trễ rồi, đồ khốn kiếp - Người Cong queo nói, vẫn không ngừng khóc.
Bất ngờ ngoài dự tính, Người Cừu lấy một cái bánh rán cong queo, và sau khi vuốt cho bớt cong, nắn cho thẳng thớm, Người Cừu đưa cho Người cong queo.
- Nhìn này, chẳng có vấn đề gì đâu. Xem đi, nó đã phẳng phiu rồi đấy. Vậy tại sao Ngài không dùng đi? Ngon lắm đấy.
Người Cong queo cầm lấy cái bánh rán, ăn một cách thích thú, ngon lành dù ông ta vẫn không ngừng khóc.
Trong khi Người Cong queo vừa khóc vừa ăn bánh rán, Người Cừu mượn cây nến của ông ta và điềm nhiên thám thính đáy hố. Đó là một cái hố rộng và trống trải, chỉ có độc mỗi một cái giường và cái bàn của Người Cong queo."Bởi vì ông ta tự gọi mình là "người gác cổng" nên chắc chắn phải có một cái cổng ở đâu đó gần đây mà ông ta phải bảo vệ", Người Cừu suy luận. "Nếu không có một cái cổng thì chắc chắn bạn chẳng cần đến một người gác cổng làm chi".
Theo cách suy luận như vậy, Người Cừu đã tìm ra một hành lang nằm ở phía bên cạnh chiếc giường. Tay cầm nến, Người Cừu trườn vào trong đường hầm.
"Nếu như mình không ăn mấy cái bánh rán đó vào Giáng Sinh năm ngoái thì mình đâu gặp chuyện rắc rối như bây giờ". Người Cừu thầm nói.
Sau khoảng mười phút, Người Cừu bắt đầu thấy ánh sáng cuối đường hầm. Chẳng bao lâu sau, miệng hầm đã ở ngay tầm mắt. Ở cái hố bên ngoài, ánh sáng mặt trời rạng rỡ khắp nơi.
"Thật lạ lùng quá. Khi mình té hố, chỉ mới hơn một giờ sáng. Trời chưa thể sáng được", Người Cừu thầm nghĩ, nghểnh cổ lên xem.
Khi bước ra khỏi đường hầm, Người Cừu thấy một vùng quang đãng, trống trải và rộng rãi trước mặt. Những cây cao đến mức như thể Người Cừu mới thấy lần đầu vây bọc xung quanh nơi quang đãng này. Từng đám mây trắng dày lờ lững trôi trên nền trời, và Người Cừu có thể nghe tiếng chim kêu.
"Hừm. Mình đang tự hỏi là nên làm gì bây giờ đây. Trong quyển sách đó có viết là khi mình té hố thì lời nguyền sẽ được rũ bỏ, nhưng sách chẳng đề cập gì về nơi này".
Cảm thấy khá đói, Người Cừu quyết định ăn một trong những cái bánh rán còn lại trong túi xách. Nhưng khi chuẩn bị gặm bánh, Người Cừu nghe một giọng nói phía sau.
- Xin chào, Chàng Người Cừu.
- Xin chào.
Khi ngoái nhìn phía sau, Người Cừu thấy hai cô gái sinh đôi đứng đó. Một cô mặc chiếc áo sơ mi có dán số "208" và cô kia là số "209".
Ngoài sự khác biệt về chữ số trên áo, còn lại thì hai nàng giống y hệt nhau.
- Này, hai cô gái - Người Cừu nói - Mấy cô có thích đến đây ăn bánh rán với tôi không?
- Chà, tuyệt quá - Cô 208 nói.
- Nhìn chúng khá ngon đấy chứ - Cô 209 nói.
- Đây này, xin mời. Bánh này tôi tự tay làm đấy - Người Cừu đáp lời.
Rồi ba người ngồi bệt xuống đất, kế bên nhau và ăn bánh rán.
- Cám ơn anh đã cho chúng tôi ăn bánh - cô 209 nói.
- Đây là lần đầu tiên tôi được ăn những chiếc bánh rán ngon lành như thế đấy - cô 208 cất lời.
- Thế thì tốt quá rồi - Người Cừu nói - Nhân tiện đây, tôi đang chịu đựng một lời nguyền rủa. Và tôi tự hỏi rằng liệu hai cô có cách nào giúp đỡ tôi hay không? Tôi đến đây để cố gắng tìm cách thoát khỏi lời nguyền đó.
- Khủng khiếp quá! - cô 208 nói.
- Bị nguyền rủa chắc hẳn là vận xui của anh rồi - cô 209 nói.
- Thật sự là xúi quẩy đấy - Người Cừu thừa nhận và thở dài.
- Hay là nói anh ta nên thử đến tìm gặp phu nhân của ngài mòng biển xem sao - cô 209 nói với cô 208.
- Một ý kiến hay tuyệt đấy. Mình cá là phu nhân của ngài mòng biển biết cách giải quyết đấy - cô 208 nói với cô 209.
- Sau cùng hết bởi bà ta biết tất cả các lời nguyền rủa đấy - cô 209 nói với cô 208.
- Này, vậy thì các cô có thể đưa tôi đến gặp phu nhân của ngài mòng được chứ? - Người Cừu xúc động hỏi thăm.
- Hừm, không phải là ngài mòng - cô 208 nói.
- Ngài mòng biển - cô 209 nói.
- Sau cùng bởi vì mòng và mòng biển là hoàn toàn khác nhau - cô 208 nói.
- Đúng như thế - cô 209 nói.
- Xin lỗi, xin lỗi - Người Cừu xin lỗi hai nàng 208 và 209 - Hai cô có thể đưa tôi đến gặp phu nhân của ngài mòng biển được không?
- Sẽ phục vụ ông - cô 208 nói.
- Với niềm hân hạnh - cô 209 nói.
Và hai nàng cùng với Người Cừu đi dọc theo con đường xuyên qua cánh rừng. Vừa đi, hai nàng vừa hát một bài hát ngắn:
- "Luôn luôn sánh bước bên nhau Cho dù gió thổi phương nào đông tây Luôn luôn sánh bước vui vầy Cho dù gió thổi bên này bên kia[1]"
Sau khi đi khoảng 10 đến 15 phút, họ đã đi qua cánh rừng và bờ biển trải rộng phía xa trong tầm mắt.
- Anh có thấy ngôi lều nhỏ ở phía trên tảng đá lớn kia không? Đó là nhà của ngài mòng biển đấy - cô 209 chỉ và nói.
- Chúng tôi không thể đi ra ngoài khu rừng này được - cô 208 nói.
- A, xin cảm ơn rất nhiều. Các cô thật sự đã giúp đỡ tôi nhiều lắm - Người Cừu nói và lục tìm trong ba lô lấy ra hai cái bánh rán đưa cho hai nàng.
- Cám ơn chàng Người Cừu - cô 208 nói.
- Chúc anh gặp may mắn, được hóa giải lời nguyền.
Đến được căn nhà của phu nhân ngài mòng biển là một nỗ lực vượt qua thách thức chết người. Tảng đá lởm chởm và dốc đứng, không hề có một lối mòn nhỏ nào cả. Hơn thế, cơn gió biển buốt giá đe dọa thổi bay Người Cừu đi vào bất cứ lúc nào.
"Mình chắc là điều này chẳng thành vấn đề gì với phu nhân ngài mòng biển bởi vì bà ta có thể bay được. Nhưng chúng ta chẳng vui vẻ gì khi phải trèo leo như thế này". Người Cừu phàn nàn.
Tuy thế, cuối cùng Người Cừu cũng leo lên được đỉnh tảng đá và gõ cửa căn nhà của phu nhân ngài mòng biển.
- Ai đấy? Anh là người đến thu gom báo đấy à?. Người Cừu nghe một giọng nói lớn và nhanh mạnh từ trong căn nhà vọng ra.
- À không. Tôi là Người Cừu… Người Cừu bắt đầu nói.
- Tôi chẳng muốn gì đâu. - giọng nói cộc lốc đáp.
- Tôi không phải là người lập dị gì đâu. Làm ơn mở cửa ra đi.
- Anh thật sự không phải đến để thu gom báo à?
Thình lình, cánh cửa bật mở và gương mặt của phu nhân ngài mòng biển hiện ra. Bà ta rất cao và cái mỏ khoằm nhô ra như cái cuốc chim.
- Hai nàng con gái sinh đôi bảo tôi rằng bà biết tất cả mọi thứ cần biết về những lời nguyền - Người Cừu bồn chồn nói. Cái mỏ đó có thể chẻ đôi đầu và giết Người Cừu. Phu nhân ngài mòng biển nhìn Người Cừu đầy vẻ nghi ngờ.
- Anh nên vào trong nhà đi. Tôi chẳng nghe anh nói gì cả.
Trong nhà cực kỳ bừa bãi lộn xộn. Nền nhà phủ đầy bụi bặm, một chai nước xốt chảy tràn lan trên bàn, và cái thùng rác đầy tràn.
Người Cừu lần lượt giải thích tất cả những sự việc trước đó, từng cái một.
- Này, cậu trai, thế thì xui cho cậu đấy - phu nhân ngài mòng biển nói
- Cậu phải tìm một cách khác để trở về thế giới của mình thôi.
- Nhưng tôi không thể quay về theo lối cũ được sao?
- Không. Một khi cậu đã xuống đây thì không có đường về đâu - phu nhân ngài mòng biển nói, lắc cái mỏ khoằm từ trái qua phải - Dù vậy nhưng tôi có thể đưa cậu ngồi trên lưng tôi bay đến một nơi có thể hóa giải lời nguyền này.
- Điều đó làm tôi hết sức vui sướng.
- Nhưng trông cậu có vẻ khá nặng nề đấy nhỉ - phu nhân ngài mòng biển nói vẻ nghi ngờ.
- Tôi chẳng nặng chút nào đâu. Tôi chỉ cân nặng có 75 pounds thôi mà - Người Cừu nói, giảm đi 10 pounds so với trọng lượng thực.
- Được rồi. Vậy chúng ta thỏa thuận nhé - Phu nhân ngài mòng biển nói - Cậu sẽ lau chùi căn phòng này và tôi sẽ đưa cậu đến nơi có thể hóa giải lời nguyền của cậu.
- Được thôi.
Nhưng Người Cừu phải mất khá nhiều thời gian để lau chùi dọn dẹp căn nhà của phu nhân ngài mòng biển. Căn nhà đúng nghĩa là đã không được dọn dẹp trong nhiều tháng liền. Người Cừu phải đánh chùi dĩa và chén uống trà, gom lại rác rưởi, tẩy lau mặt bàn, hút bụi sàn nhà, đánh bóng mái ngói, lượm lặt tất cả thứ rác rưởi rồi đi đổ. Khi đã làm xong tất cả những việc đó, Người Cừu kiệt sức.
"Mình chịu đựng lời nguyền rủa khốn kiếp để chuốc lấy tất cả niềm khổ sở này ư?" - Người Cừu lặng lẽ phàn nàn.
- Trông căn nhà khá tuyệt đấy chứ nhỉ - phu nhân ngài mòng biển nói, vẻ hài lòng - Một căn nhà luôn cần phải ngăn nắp như thế này chứ nhỉ?
- Vậy bây giờ bà sẽ đưa tôi đến nơi để có thể xóa bỏ lời nguyền chứ?
- Đúng, tôi sẽ giữ lời hứa của mình. Nào leo lên lưng tôi đi.
Khi Người Cừu đã yên vị trên lưng, phu nhân ngài mòng biển nhanh chóng dang cánh bay lên trời. Bởi vì đây là lần đầu tiên Người Cừu được bay đi đây đó, nên anh ta ôm chặt lấy cổ bà mòng biển.
- Này, đừng làm tôi bị đau chứ. Đừng siết chặt quá. Tôi không thể nào thở được - phu nhân ngài mòng biển càu nhàu.
- Ồ, tôi thật sự xin lỗi - Người Cừu ngượng ngùng nói.
Từ trên không trung, cả đại dương, cánh rừng và núi đồi đều ở trong tầm mắt. Màu xanh của cánh rừng và màu xanh sậm của mặt biển trải dài vô tận. Và bờ cát trắng như một chiếc thắt lưng phân đôi ranh giới. Đúng là một quang cảnh đẹp tuyệt vời đến mức không thể tin được.
- Phong cảnh thật tuyệt vời đấy chứ, phải không? - Người Cừu nói.
- Có lẽ đó là với cậu thôi. Còn tôi thì trông thấy mỗi ngày, và tôi thấy chúng chán ngắt - bà mòng biển đáp lời với vẻ chán chường rõ rệt.
Tung cánh bay một lát, bà mòng biển bay vòng vòng xung quanh nhà rồi đáp xuống một cánh đồng cỏ cách đấy không đầy 100 dặm.
- Chuyện gì vậy, thưa bà? Bà cảm thấy mệt sao? - Người Cừu hỏi thăm vẻ quan tâm.
- Không, tôi thấy khỏe lắm - bà mòng biển vừa lắc đầu vừa nói - Tại sao cậu lại hỏi tôi một câu ngu ngốc như vậy? Tôi nổi tiếng khắp vùng này về sức mạnh đấy”.
- Vậy thì tại sao bà lại đáp xuống đây.
- Bởi vì nơi cần đến chính là nơi này đấy - bà mòng biển nói.
- Nhưng từ chỗ bà đến đây chưa đầy 100 dặm mà - Người Cừu ngạc nhiên nói - Nếu gần như vậy, thì cần gì tôi phải leo lên lưng bà bay đến đây. Tôi có thể đi bộ một cách dễ dàng mà.
- Nhưng nếu thế thì cậu đâu có lau chùi nhà cho tôi, đúng không?
- À, tôi chắc là không, nhưng…
- Thôi, tôi không muốn nghe một lời bóng gió nào đâu nhé. Tôi đã đưa cậu đến đây trên đôi cánh của mình đúng như tôi đã hứa.
- Hừm, vâng, dĩ nhiên, Người Cừu hoài nghi nói.
Bà mòng biển vẫn tự cười vui vẻ rồi tung cánh vào không trung, bay về hướng nhà mình.
Khi Người Cừu ngước nhìn xung quanh, anh ta trông thấy một cây cao lớn nằm giữa đồng cỏ. Có một cái thang dây gắn vào thân cây. Bởi vì chẳng thấy ai trong tầm mắt, Người Cừu quyết định dùng thang leo lên cây.
Cái thang dây cứ đung đa đung đưa, thật khó để leo lên. Mồ hôi đầm đìa, Người Cừu tìm mọi cách để trèo lên đến đỉnh. Sau khoảng 30 đến 40 nấc thang, khi ở khoảng giữa những cành cây, Người Cừu chợt nghe một giọng nói tươi vui:
- Này, cậu đang làm gì trên đây thế?
- Ồ, xin lỗi. Tôi đến đây bởi vì một lời nguyền. Nhân tiện đây, ngài có thể giúp tôi chứ, đúng không? - Người Cừu hướng về giọng nói lúc nãy, đáp.
- Cậu nói là một lời nguyền rủa à? À, tôi hiểu rồi. Nhưng dĩ nhiên, cậu cứ lên đây đã - Giọng nói đáp.
Người Cừu cố gắng hết sức, tránh trượt chân, dùng cùi chỏ thúc người lên những cành cây. Khi vào trong, Người Cừu thấy có một cái hố trong cây được chỉnh trang lại thành một căn phòng nhỏ. Và đứng trước căn phòng là Người Cong queo đang ngồi xổm, cạo râu bằng một chiếc dao cạo lớn.
- Baa…baa…ba - Người Cừu lắp bắp - Không phải ông sống ở đáy hố hay sao?
- Ha..ha. Không, không phải tôi - Người Cong queo đáp và cười lớn
- Đó là ông anh tôi. Xem này, tôi bị vênh về bên phải. Còn anh tôi bị vênh về phía trái. Anh tôi rất dễ khóc và luôn luôn nói những chuyện xấu về con người.
Người Cong queo Hữu, mắt hướng về phía phải và cằm vênh về phía trái, dùng dao cạo râu rất cẩn thận và cười suốt ngày.
- Cùng một gia đình mà tính cách lại khác nhau như thế đấy - Người Cừu nói một cách ấn tượng.
- À, cậu biết đấy, phải và trái tương phản với nhau mà - Người Cong queo Hữu nói, dùng dao cạo phía sau tai - Ha ha ha ha.
- À, còn về lời nguyền…- Người Cừu mở lời.
- Đừng nói với tôi về tất cả những thứ ấy, he he he he - Người Cong queo Hữu nói.
- Nó còn tệ hơn việc bị nguyền rủa nữa đấy, ha ha ha ha
Người Cừu, chán nản và giận dữ.
"Mình thật sự ghét nơi này", anh ta nói. "Người Cong queo Hữu rồi Người Cong queo Tả, họ đều cong queo giống nhau. Và cái bà mòng biển đó thật là ích kỷ quá chừng".
Ý nghĩ như vậy làm cho Người Cừu chán nản. Anh ta lê bước xuống đường. Sau khi đi bộ một lúc, Người Cừu nhận ra một dòng suối tuyệt đẹp. Anh ta quyết định dừng lại uống vài ngụm nước và ăn một cái bánh rán. Khi ăn xong, Người Cừu bắt đầu buồn ngủ và ngả mình xuống bãi cỏ, Người Cừu đánh một giấc ngon lành.
Khi Người Cừu thức dậy, trời đã tối hẳn, vài vì sao chiếu sáng trên nền trời. Tiếng gió gào rền rỉ. Lẫn trong tiếng gió, đôi khi ta có thể nghe ra tiếng sủa của chó sói.
- Mình kiệt sức rồi. Và trên hết là mình đã lạc lối vào một vùng đất lạ. Và thậm chí mình còn chưa thoát khỏi được lời nguyền chết tiệt đó". Người Cừu nói.
- Hừm, tôi ngẫu nhiên nghe được lời tâm sự của bạn. Bị nguyền rủa chắc là một điều vô cùng phiền muộn đấy nhỉ, một giọng nói rụt rè thình lình vang lên trong bóng tối.
- Ai đấy? Bạn là ai thế? - Người Cừu ngạc nhiên hỏi.
- À, Thật sự thì tôi chẳng là ai cả - giọng nói cất lên, nghe rất lúng túng ngượng nghịu.
Người Cừu nhìn quanh một cách điên cuồng, nhưng anh ta chẳng thấy bất cứ cái gì trong bóng tối cả.
- Làm ơn đừng lo lắng kiếm tìm tôi. Tôi chẳng đáng để bạn bỏ thời gian tìm kiếm đâu.
- Thế bạn có thể bước ra đây và cùng ăn bánh rán với tôi không? - Người Cừu cố gắng mời mọc - Chứ tôi ngồi đây có một mình buồn lắm.
- Thật sự thì chẳng đáng để bạn mời tôi ăn bánh rán đâu - người Không ai cả Vô hình nói - Mặc dù lời đề nghị của bạn vô cùng hấp dẫn.
- Chẳng sao đâu. Tôi có nhiều lắm. Nhưng nếu như bạn e thẹn thì tôi sẽ để một cái bánh ở đây rồi quay đi chỗ khác để bạn đến đây thưởng thức. Bạn thấy thế nào?
- Được đấy - người Vô hình đáp - Nhưng thật sự thì tôi rất nhỏ nên nửa cái bánh cũng đã là nhiều.
Người Cừu đặt một cái bánh lên bãi cỏ rồi quay đi. Sau đó một lúc lâu , có một âm thanh rón rén của ai đó đang tiến đến gần và ăn bánh rán.
- Trời ơi, bánh này ngon tuyệt. Thật sự là rất ngon - người Vô hình nói - Nhớ đừng quay mặt lại đấy.
- Tôi sẽ không quay mặt lại đâu. Nhưng bạn có thể nói cho tôi những điều bạn biết về lời nguyền này không? - Người Cừu hỏi thăm.
- Ồ vâng, lời nguyền. À, tôi hiểu. Măm măm. Vâng, tôi biết đôi điều về chúng - Không ai cả đáp - Thật sự là bánh ngon lắm. Măm măm.
- Tôi có có thể rũ bỏ lời nguyền ở đâu? - Người Cừu hỏi.
- Chỉ việc lặn xuống con suối kia. Măm măm. Thật sự làm chuyện đó dễ dàng thôi - Không ai cả nói.
- Nhưng tôi không biết bơi.
- Bạn không cần phải lo lắng về chuyện mình có biết bơi hay không. Chẳng sao cả đâu. Cái bánh này tuyệt quá. Măm măm măm.
Lòng lo lắng không yên, Người Cừu bước về rìa con suối và cắm đầu nhảy xuống giữa dòng trôi. Tuy thế, ngay khi Người Cừu bắt đầu lặn, tất cả nước suối đều biến mất, và anh ta đâm đầu xuống đáy một cái hố nghe một tiếng: “Huỵch”. Người Cừu thấy đầu mình choáng váng.
- Ôi trời ơi. Tôi xin lỗi - Có ai đó nói - Tôi không ngờ cậu lại cắm đầu mà lặn xuống.
Khi mở mắt ra, Người Cừu thấy một ông già nhỏ bé cao khoảng 5 feet đang đứng trước mặt.
- A, thật là đau quá - Người Cừu nói - Và ông là cái đồ chết tiệt nào vậy?
- Ta là vị Thánh cừu tối linh đây - ông già đáp với một nụ cười tử tế.
- Ông. Tại sao ông lại giáng lời nguyền rủa vào tôi? Tại sao tôi phải làm tất cả những chuyện tệ hại này chứ? Tôi có bao giờ làm hại ai đâu? Vậy mà tôi phải chịu đựng tất cả những chuyện này. Thật sự ý tôi là vậy đó. Toàn thân tôi đau ê ẩm và nhìn đi, đầu tôi sưng một cục đây này - Người Cừu nói và cho vị Thánh cừu tối linh xem cục u trên trán.
- Đúng, tôi đồng ý. Thật là tệ quá. Thật sự là quá tệ. Nhưng tôi có lý do để làm thế - vị thánh cừu nói.
- À, vậy thì tôi rất muốn nghe đây - Người Cừu giận dữ nói.
- Tôi nói ngay đây - vị thánh cừu nói - Nhưng trước hết thì đến đây đã. Tôi muốn cho cậu xem cái này.
Vị Thánh cừu quay đi và bước lanh lợi vào sâu trong hố. Người Cừu vẫn lắc đầu, do dự bước theo sau. Khoảng một lúc lâu sau, vị Thánh cừu đến trước một cánh cửa, và ngay lập tức mở nó ra.
"Giáng Sinh vui vẻ", mọi người reo lên. Tất cả mọi người đều có mặt trong phòng: Người Cong queo Tả và Người Cong queo Hữu, hai cô gái 208 và 209, bà phu nhân ngài mòng biển và thậm chí còn có Không Ai cả. Không Ai Cả vẫn còn dính mấy mẩu bánh vụn quanh miệng. Người Cừu cũng thấy thêm một dáng người nữa y chang như vị giáo sư cừu.
Trong căn phòng có một cây thông Nôen lớn được trang trí bắt mắt. Bên dưới cây chất đống những món quà có thắt những dải ruy-băng, xếp chồng lên nhau.
- Cái quái gì thế này? Tất cả các người làm gì ở đây thế? - Người Cừu sửng sốt nói.
- Tất cả chúng tôi đang đợi anh - cô 208 nói.
- Chúng tôi lúc nào cũng đợi anh cả - cô 209 nói.
- Cậu không thấy mình đang được mời đến dự bữa tiệc Giáng Sinh hay sao? - vị Thánh cừu nói.
- Nhưng tôi bị nguyền rủa, vì thế mà tôi…- Người Cừu lắp bắp nói.
- Tôi giáng cho cậu lời nguyền để cậu có thể xuống đây chơi - vị Thánh cừu đáp lời - Cái cách này thú vị và mọi người đều vui vẻ thực hiện.
- Dĩ nhiên là vui rồi. Cạp cạp - bà mòng biển nói.
- Và thú vị nữa chứ, đồ chết tiệt - Người Cong queo Hữu nói.
- Một niềm vui thích, ha ha he he - Người Cong queo Tả cười khúc khích.
- Thật là ngon tuyệt - Không Ai cả lẩm bẩm.
Mặc dù Người Cừu thực sự khá khó chịu về trò lừa gạt này, nhưng anh ta nhanh chóng vui vẻ trở lại. Khó có thể giữ niềm bực bội lâu dài trong lòng khi tất cả mọi người xung quanh đang trải qua những phút giây vui vẻ.
- Nếu vì lý do đó, thì tôi chắc là được thôi - Người Cừu nói và gật đầu tán thành.
- Này, chàng Người Cừu, anh phải chơi đàn cho chúng tôi - cô 208 nói.
- Chắc hẳn anh chơi đàn rất hay - cô 209 nói.
- Có cây đàn piano ở đây không - Người Cừu hỏi.
- Có chứ, có chứ - vị thánh cừu nói, kéo giật một tấm vải. Dưới lớp vải phủ là một cây đàn piano hình con cừu.
- Cây đàn piano này được làm đặc biệt cho cậu đó. Hãy chơi với tất cả lòng mình đi nhé.
Đêm hôm đó Người Cừu hạnh phúc vô cùng. Chiếc đàn piano cừu vang lên những thanh âm tuyệt hay, những giai điệu say mê và đẹp đẽ tuôn tràn từ tâm trí Người Cừu, hết lớp này đến lớp khác.
Người Cong queo Tả và Hữu hát vang, cô 208 và 209 nhảy nhót, và phu nhân của ngài mòng biển bay quanh phòng và kêu vang. Vị giáo sư Cừu và vị Thánh cừu tối linh mặt đối mặt, so tài uống bia cao thấp. Không Ai cả lăn tròn qua lại trên mặt đất trông rất vui vẻ. Và chẳng bao lâu sau, chiếc bánh Giáng Sinh được chia đều cho tất cả mọi người.
- Măm măm…ngon tuyệt. Măm măm - Không Ai cả nói, lấy cho mình miếng bánh thứ ba.
- Xin cầu cho hoà bình và hạnh phúc mãi mãi cho thế giới Người Cừu - vị Thánh cừu cầu nguyện.
Khi Người Cừu thức giấc, anh thấy mình đang nằm trên giường trong căn phòng của mình. Mặc dù dường như Người Cừu mới chợt tỉnh giấc mơ nhưng anh biết rằng đây không chỉ là một giấc mơ. Vẫn còn cục u rất dễ thấy trên đầu, mấy vết dầu sau lưng áo, và cây đàn piano cũ kỹ xập xệ biến đâu mất, thay vào đó là cây piano hình cừu màu trắng.
Đó là điều thực sự xảy ra khi Người Cừu thức dậy.
Ngoài cửa sổ, tuyết đã rơi. Trên các cành cây, trên những hộp thư, trên những cây cột rào, tuyết trắng chất cao.
Buổi chiều ngày hôm đó, Người Cừu đến ngoại ô thành phố để thăm vị giáo sư cừu, nhưng căn nhà của ông ta không còn ở đó nữa. Chẳng có gì khác ngoài một bãi đất hoang. Những bụi cây cắt tỉa hình cừu, những cây cột cổng, những viên đá lát hình cừu cũng hoàn toàn biến mất.
"Mình sẽ chẳng bao giờ có thể gặp ai trong số bọn họ nữa rồi", Người Cừu nghĩ thầm. "Hai Người Cong queo, hai cô gái sinh đôi 208 và 209, phu nhân ngài mòng biển, Không Ai cả, vị giáo sư cừu và vị Thánh cừu nữa chứ". Khi nghĩ như thế, nước mắt tuôn trào từ đôi mắt Người Cừu. Thật sự anh dần dần trở nên thích thú với tất cả những người đó.
Khi Người Cừu quay trở về căn nhà rộng lớn, anh thấy một bức thư. Bên trong có một tấm thiệp Giáng Sinh có vẽ một chú cừu. Và mặt trong bức thiệp có in dòng chữ:
"Xin cầu cho hoà bình và hạnh phúc mãi mãi cho thế giới Người Cừu…" Hoàng Long dịch theo bản tiếng Anh của Chris Allison
[1] Tạm dịch từ bản tiếng Anh “Always with the twins, Even if the wind blows east and west, Always with the twins, Even if the wind blows right and left”.