Over and over I whisper your name. Over and over I kiss you again
TT&NT

21.2.09

HARUKI MURAKAMI

Nhà văn Nhật (sinh năm 1949). Tác phẩm nổi tiếng đã dịch ra tiếng Việt: Rừng Na Uy (bản dịch tiếng Anh: Norwegian Wood) , Biên niên ký chim vặn dây cót , Phía Nam biên giới Phía Tây mặt trời , Kafka bên bờ biển ... Các tác phẩm khác đã dịch ra tiếng Anh: - Sputnik Sweetheart - Underground - South of the Border, West of the Sun - The Wind-up Bird Chronicle - Dance, Dance, Dance - The Elephant Vanishes - Hard-Boiled Wonderland and the End of the World - A Wild Sheep Chase - Pinball, 1973 - Hear the Wind Sing
Rừng Nauy
Nơi Murakami phá vỡ địa hạt cấm cuối cùng, để cho cái nhìn phóng khoáng và tự nhiên về xác thân của phương Tây tràn ngập trong văn ông.
Tên sách: Rừng Nauy Tác giả: Haruki Murakami Dịch giả: Trịnh Lữ NXB Hội nhà văn và Công ty Văn hoá & Truyền thông Nhã Nam 2006
Trang bìa cuốn tiểu thuyết.Có thể, bạn sẽ thấy lòng mình chạnh buồn khi cùng bước về thời tuổi trẻ của Watanabe, trước những câu chuyện về tình bạn, tình yêu, giữa con người - con người ở đây được trải ra trong một nhịp điệu tinh tế và trầm lắng. Bạn khó lòng dứt ra nửa chừng ở thế giới đó, nơi nỗi buồn đã vây kín những bước chân, khi tất cả các nhân vật đều thành thật trở về thế giới riêng tư của mình. Họ cô đơn tới mức không giấu giếm thân phận, nỗi niềm, những cật vấn cá nhân. Và ở đó, bạn gặp những câu chuyện chân xác, không màu mè, để tự mình vén lên bức màn quanh những nhân vật mang tính cách có phần lạ lùng: Toru, Naoko, và Midori.
Bất chợt lắng nghe bài hát của Beatle: Rừng Nauy, Toru nhớ lại mối tình đầu ngọt ngào và đau đớn của hai mươi năm trước. Nàng là Naoko, với vẻ đẹp mong manh và yểu mệnh trước cuộc đời, khi những cuộc đi lang thang vô định của hai người trong thành phố đã khởi nguồn cho tình yêu của chàng trai mới lớn. Không có được sự thăng bằng về tâm lý, Naoko rời bỏ tất cả tới sống trong một dưỡng đường, trong khi Toru ở lại gắng sống cuộc đời cô độc trong trường đại học. Điều gì gắn hai người với nhau, đó là cảm thức về cái chết sau vụ tự sát buồn thảm của người bạn thân nhất của cả hai: Kizuki. Họ bỗng nhận ra, sự nhẹ bỗng của tồn tại và sự mong manh của sợi dây tình cảm giữa người với người để rồi xích lại gần nhau trong nỗi chông chênh. Và mối tình ngọt ngào u uẩn chớm nở đó cũng không làm mờ phai những nghi vấn muôn đời của tuổi trẻ: Tại sao ta cô đơn, nền tảng cuộc đời là gì, cái gì có thể khỏa lấp nỗi trống trải trong một xã hội tham vọng và xa lạ, mang lại ý nghĩa cho cuộc hiện sinh ngắn ngủi. Đối diện cuộc đời, Naoko đã lựa chọn cái chết, còn Toru, chàng trai đó đã chọn sự sống, khi bắt đầu tình yêu mới với Midori ....
Rừng Nauy là như thế! Cuốn sách đã đưa Haruki Murakami lên vị trí một thần tượng văn hóa thế giới, đã gói trong mình hương vị của một Nhật Bản hôm qua và hôm nay. Có thể gọi đó là gì, khi thiên nhiên Nhật và con người Nhật mẫn cảm thì vẫn thế, trong nỗi trống vắng siêu hình, trong sự duy mỹ, trong tâm trạng bi thương về hai lẽ sống chết. Sự đầy rẫy những nhân vật tự tử vẫn là một dòng chảy chưa bao giờ cạn kiệt trong văn chương xứ sở này, đến Murakami cũng vậy. Ông là một nhà văn Nhật bản trong ý nghĩa đầy đủ nhất của từ này, khi đã cùng lúc gìn giữ những lý tưởng tinh thần và thái độ thẩm mỹ Nhật, đặc biệt là sự thấm đẫm cảm giác thiền của một người phương Đông.
Nhưng Nhật Bản của hôm nay, phải chăng là nơi người ta chứng kiến nỗi cô đơn của con người trong một xã hội hiện đại hãnh tiến và đầy ắp những giá trị vật chất, đã khiến các nhân vật của ông phải đi tìm nền tảng cuộc đời trong tình yêu và sự sống tự do, bình dị của cá nhân. Cá nhân và sự giải phóng của xác thân, như là công cụ cuối cùng, thông qua tình dục. Như một cái giỏ để những con người tuổi trẻ trút bỏ những bất lực của một đời sống buồn chán và mất phương hướng, tình dục cũng lại như một hình thức hướng thượng, thiêng liêng nhất của nhân tính, là biểu hiện gợi cảm của sự hòa hợp toàn vẹn, hòng mang lại cho đời ta hạnh phúc và ý nghĩa. Với những trang viết không kiêng dè, sex và chất thơ của sex, Murakami đã phá vỡ địa hạt cấm cuối cùng, để cho cái nhìn phóng khoáng và tự nhiên về xác thân của phương Tây tràn ngập trong văn ông. Và cùng với Rừng Nauy, bắt đầu thổi sinh khí cho nền văn chương ưa thuần túy tinh thần của Nhật Bản .
Biên niên ký chim vặn dây cót
Haruki Murakami đã khắc hoạ những cung bậc tinh tế biến ảo tới mức siêu thực của đời sống nội tâm và những giấc mơ, đã vượt qua những thủ pháp kể chuyện có phần duy lý của phương Tây, bộc lộ một cái nhìn tràn đầy vẻ đẹp của Thiền và triết lý phương Đông trong một tinh thần nhân đạo mạnh mẽ.
Biên niên ký chim vặn dây cót
Tên sách: Biên niên ký chim vặn dây cót Tác giả: Haruki Murakami Dịch giả: Trần Tiễn Cao Đăng Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Nhã Nam ấn hành.
Haruki Murakami đã khắc hoạ những cung bậc tinh tế biến ảo tới mức siêu thực của đời sống nội tâm và những giấc mơ, đã vượt qua những thủ pháp kể chuyện có phần duy lý của phương Tây, bộc lộ một cái nhìn tràn đầy vẻ đẹp của Thiền và triết lý phương Đông trong một tinh thần nhân đạo mạnh mẽ.
Tiếng hót của con chim vặn giây cót chỉ vang lên vào những thời khắc quyết định, khi con người tỉnh thức những tiếng lòng thầm kín, hay khoảnh khắc thấu suốt cảm giác về Định mệnh; tiếng chim tiên báo những thảm hoạ khốc liệt khơi nguồn từ chính con người, cũng là tiếng thúc giục âm thầm của khát vọng đi tìm chân lý. Tiếng hót của chim vặn giây cót trở thành biểu tượng sự thức tỉnh những xúc cảm mãnh liệt và sự trưởng thành về bản ngã của con người trong đời sống hiện đại. Đó chính là ý nghĩa của hình tượng chim giây cót xuyên suốt cuốn tiểu thuyết lớn của Haruki Murakami
Nếu như Rừng Nauy vừa được trao giải thưởng Franz Kafka năm 2006 của Viện hàn lâm nghệ thuật CH Czech, thì Biên niên ký chim vặn dây cót là tiểu thuyết chính thức làm nên tên tuổi Haruki Murakami ở phương Tây và nhiều nước khác trên thế giới. Đến độ trên bìa các cuốn sách khác của Murakami, người ta thường đọc thấy dòng quảng cáo “Được viết bởi tác giả của Biên niên ký chim vặn dây cót”.
Câu chuyện đưa ta đến nước Nhật thời hiện đại, với những thân phận con người bé nhỏ, lạ lùng. Những cô bé 15 tuổi, như Kasahara May, ngồi sau xe môtô phóng với tốc độ kinh hoàng, vươn tay bịt mắt bạn trai phía trước. Sau tai nạn, bạn trai qua đời, chỉ còn lại mình cô với nỗi day dứt khôn nguôi: “Chính vì có cái chết, người ta mới phải băn khoăn nhiều đến thế về sự sống.” Những thiếu nữ, như Kano Kreta, tự kết liễu đời mình để giải thoát những cơn đau triền miên có thể gặp phải bất cứ lúc nào, vì bất cứ điều gì nhưng không thành. Phải trả nợ một khoản tiền lớn cho hãng bảo hiểm, không do dự, cô đi làm gái điếm. Những Dân biểu nghị viên như Wataya Noburu, leo cao trong danh vọng nhờ tài lừa dối đám đông và khả năng khơi dậy những bản năng sa đoạ ở người khác… Trong thế giới ấy, nhân vật chính của Biên niên ký chim vặn giây cót, Okada Toru, chàng trai giản dị và chân thành, phải đối mặt với biến cố lạ lùng: Kumiko, người vợ yêu dấu của anh bỗng nhiên biến mất không một lời nhắn gửi. Sự kiện phi lý này khơi nguồn cho sự thức tỉnh trong Okada, thúc đẩy anh ngắm nhìn, chứng nghiệm lại thế giới tràn đầy cái phi lý chung quanh mình, bằng con mắt bản thể. Với Murakami, thế giới đầy những điều bất thường, phi lý trở thành động lực để con người lên đường trở lại với bản thể chính mình.Cũng tại thời điểm này, Toru Okada nghe thấy tiếng hót của con chim vặn giây cót, như tiếng vọng của bản ngã chính anh. Watanabe bắt đầu cuộc hành trình nhận thức, cuộc hành trình tràn đầy những xúc cảm mãnh liệt khám phá lại cuộc sống và tình yêu đã qua, cuộc sống đang diễn ra, của chính mình và những người xung quanh. Với Okada, từ đây cũng mở ra một thế giới siêu thực với những giấc mơ đầy ám ảnh tính dục, những căn phòng tối đen ngào ngạt phấn hoa cất giấu bí mật về sự lệ thuộc và nô dịch, bóng tối thẳm sâu của bản ngã và xa rời bản ngã, Thiền, và những năng lực tâm linh siêu hình. Trong những mối quan hệ đầy cảm thông và gần gũi với những phụ nữ khác, Kasahara May, mẹ con nhà tạo mẫu Akasaka Nhục đậu khấu, hay Kano Kreta…, Okada dần dần hiểu ra bản chất của cuộc sống con người, không phải một mắt xích của thế giới vật chất cơ giới từ bên ngoài, mà chính là những năng lực tưởng tượng sáng tạo của nội giới, những ám ảnh tinh thần truyền từ người nọ sang người kia, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Okada cũng nối lại trong mình sợi dây liên kết bí ẩn mà mạch lạc với quá khứ xa xăm, nhờ những câu chuyện của các chiến binh xưa và nhân chứng sống như Akasaka. Một thế giới khác, giấc mộng bá chủ không thành của quân đội Thiên hoàng trên cao nguyên Nội Mông, trận Normohan, Trân Châu Cảng, những cuộc tàn sát man rợ trong và sau Thế chiến 2, khi con người từng rơi vào vực thẳm bởi chính sự tàn ác và lầm lạc của chính mình. Okada đã giác ngộ, không còn cách nào khác, chỉ có cương quyết diệt trừ cái ác, bắt đầu từ trong chính những - giấc - mơ của con người, đấu tranh chống lại nó trong chính thực tại hôm nay. Đó cũng là con đường để giải thoát cho người vợ thân yêu của anh đang bị giam cầm trong vết thương tinh thần như một ác mộng khủng khiếp về con quỷ Râu xanh, do chính người anh vợ, chính khách Wataya Noburu gây nên.
Okada và Watanabe của Rừng Nauy, là loại nhân vật quen thuộc của Murakami. Chân thành và giản dị, không bị ảnh hưởng bởi bất cứ khuôn mẫu xã hội nào, sống và yêu thương với bản tính tự nhiên và hiện sinh, đồng thời lắng nghe, cảm thông, kết nối con người với nhau - các nhân vật thể hiện trọn vẹn và sâu sắc tinh thần nhân đạo của Murakami.
Bạo lực và tình dục, những yếu tố thịnh hành của thể loại tiểu thuyết đen phổ biến trên thế giới, xuất hiện trong tác phẩm của Murakami chỉ như một trong những phương diện miêu tả và khám phá đời sống. Vẻ đẹp tràn đầy tác phẩm là sự tinh tế và mãnh liệt của tinh thần và bản ngã con người, đủ để đưa Murakami đứng vào hàng các tác gia vĩ đại trên thế giới.
So với bản dịch Rừng Nauy ngọt ngào của Trịnh Lữ, Biên niên ký chim vặn dây cót đến với người đọc Việt Nam qua bàn tay của dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng với một phong cách nổi bật bởi sự chân xác, thấu suốt. Người ta không còn có cảm giác đây là một tác phẩm dịch nữa, để có thể tin cậy đắm mình vào sự dẫn dắt kỳ tài của một câu chuyện lớn.
Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời
Đó là câu chuyện đau đớn, khuấy động một cách ám ảnh. Một cuốn sách đẹp, gần như là mịn màng về những tầng sâu không thể dò đến của chúng ta.
Phía Nam biên giới , phía Tây mặt trời
Tên sách: Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời Tác giả: Haruki Murakami Dịch giả: Cao Việt Dũng Nhà xuất bản Hội nhà văn và công ty Nhã Nam
Ngay từ nhỏ, cậu bé Hajime đã nhận thức sự bối rối và mặc cảm thân phận "con một", chẳng giống những đứa bạn cùng trang lứa. Và sau này, người bạn gái thân nhất của Hajime, Shimamoto-san cũng thuộc diện "con một" hiếm hoi. Đến người con gái mà Hajime lao vào với niềm đam mê khoái lạc không thể kiểm soát được, cũng là "con một"... Khuấy động ngay từ đầu câu chuyện là một chàng trai quá nhạy cảm với xung quanh như thế.
Năm 37 tuổi, Hajime đã có một cơ ngơi đáng để anh mỉm cười hài lòng, một công việc vừa kiếm ra tiền, vừa thỏa mãn sở thích cá nhân, một người vợ xinh đẹp mà anh hết lòng yêu mến, hai đứa con thơ lúc nào cũng quấn quít chân bố. Cũng như nhiều đàn ông khác ở lứa tuổi này, Hajime cũng có tình nhân, nhưng chỉ là thoáng qua mà không đọng lại chút dư vị nào.
Trang bìa cuốn Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời.
Hajime được yêu và cảm thấy sự may mắn và hạnh phúc. Nhưng trong cái vòng quay đều đặn mỗi ngày ấy, có cái gì nhói sâu âm thầm giục giã, mà đến một lúc nào đó, anh nhận ra mình chưa đủ. Cái người đánh thức niềm sâu thẳm ấy trong Hajime là một cô bạn học từ hồi cấp I, Shimamoto-san. Những bản nhạc, những ly cocktail mang hương vị đặc biệt của quán bar Robinet's, quá khứ tuổi thơ vấn vít... đã lôi kéo Hajime ra khỏi vòng quay thường nhật để tìm ý nghĩa của cuộc đời mình.
Và Hajime đã yêu, yêu một người chỉ duy nhất có cái tên và tình bạn thời quá khứ hơn 20 năm. Khó mà lý giải điều gì đã khiến một người đàn ông đầy chuẩn mực với gia đình và công việc như Hajime đã lần lượt cởi trói những gì đang bó buộc mình. Phải chăng đó là sự mong manh giữa một người phụ nữ quá mơ hồ đến cùng những lời hẹn "có lẽ", "có thể", "một khoảng thời gian nữa"? Phải chăng anh yêu cô như muốn tìm lại quá khứ của chính mình? Phải chăng anh đang muốn kiếm tìm lời lý giải về ranh giới giữa thực và hư?
Rốt cuộc thì bao sốt ruột chờ trông mong mỏi của Hajime cũng được đền bù thoả đáng khi họ cùng trốn gia đình để đến với nhau, bất chấp chuyện gì xảy ra. Rốt cuộc thì cả hai lần đầu tiên được yêu nhau như người đàn ông yêu một người đàn bà. Rốt cuộc thì cả hai đã tìm ra sự hòa hợp hoàn hảo của cơ thể... Nhưng ngay cả ở chốn tưởng như đã là tận cùng đó, họ vẫn không thể đến được với nhau.
Không phải Hajime mà tất cả những người phụ nữ trong cuốn sách này đều bọc mình trong lớp màn bí ẩn. Đằng sau tình yêu trong veo của cô gái Izumi là một mối hận khiến cô trở thành vô cảm. Đằng sau cô vợ Yukiko ngọt ngào và xinh đẹp là một lần tự tử hụt cùng những nỗi đau dẳng dai bên mình. Còn đằng sau Shimamoto-san là một thứ gì mà không ai có thể chạm tới được...
Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời là cuốn tiểu thuyết chứa đụng nhiều nhất con người thật của Haruki Murakami, và là câu chuyện đơn giản nhất mà Murakami từng kể. Tuy vậy, đơn giản không có nghĩa là dễ hiểu, và một lối kể chuyện giản dị không loại bỏ những nỗ lực kín đáo trong việc thoát ra khỏi những lối đi văn chương đã cũ mòn.
"Sự kết nối" dễ thấy giữa Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời và những tác phẩm khác của Murakami có lẽ là năng lực đặc biệt của nhà văn Nhật Bản đối với cách tạo ra và xử lý cái bí ẩn. Không có mật độ dày đặc như trong Biên niên ký chim vặn dây cót hay Kafka bên bờ biển, cái bí ẩn ở đây giống như những đoạn nhạc jazz biến tấu ngẫu hứng trên nền của những bản nhạc cũ, và chính là cái để lại dư vị lâu nhất cho người đọc.
Kafka bên bờ biển
Tên tác phẩm: Kafka bên bờ biển Tác giả: Haruki Murakami Dịch giả: Dương Tường Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Công ty văn hoá và truyền thông Nhã Nam
Những chương lẻ kể cho ta nghe câu chuyện về Kafka Tamura, một cậu bé mười lăm tuổi trong đầu luôn văng vẳng lời thúc dục của một bản ngã tên Quạ.
Cậu sống cùng cha sau khi mẹ và chị gái bỏ đi. Nhưng giữa hai cha con dường như chẳng có một mối liên hệ nào ngoài AND di truyền và lời nguyền độc địa của người cha: mày sẽ ngủ với mẹ và chị gái của mình sau khi giết cha. Vừa chạy trốn lời nguyền và cuộc sống bên người cha, vừa đi tìm chị gái và mẹ, cậu chất đầy đồ dùng cá nhân vào một ba lô, cầm trong tay một thẻ ATM và rời khỏi ngôi nhà lạnh lẽo.
Sau hành trình dài, Kafka dừng chân ở Takamatsu và đắm mình trong những tác phẩm lớn như Nghìn lẻ một đêm, tuyển tập của Natsume Soseki...tại thư viện tư của dòng họ Komura. Thế nhưng việc đọc sách trong yên bình của cậu bị cắt ngang bởi một sự kiện kỳ bí. Cậu đột ngột ngất đi và khi tỉnh dậy, thấy áo quần mình thấm đầy máu. Kafka buộc phải nhờ tới sự trợ giúp của một cô gái trẻ mà cậu tự gọi tên là Sakura – người cậu luôn luôn băn khoăn liệu có phải là chị gái của mình. Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của Oshima, người làm tại thư viện, cậu được nhận việc tại đây và hàng ngày gặp gỡ người phụ nữ hơn năm mươi Miss Saeki. Một mặt, Kafka luôn trăn trở Miss Saeki có phải là mẹ mình, mặt khác cậu đem lòng yêu thương linh - hồn - sống thuở mười lăm của Miss Saeki đêm đêm tìm về phòng cậu. Đang chới với giữa hai bờ hiện thực và huyền ảo, quá khứ và thực tại, Kafka nhận tin cha cậu đã bị giết chết vào đêm cậu ngất đi. Đó cũng là lúc câu hỏi đầy ám ảnh dấy lên trong lòng cậu thiếu niên mười lăm tuổi: có phải lời nguyền đã ứng nghiệm?
Những chương chẵn là câu chuyện về người đàn ông lục tuần Nakata. Sau một tai nạn kỳ lạ từ thuở nhỏ, cậu bé Nakata đánh mất trí nhớ cũng như khả năng đọc, viết, nhưng bù lại, cậu có khả năng nói chuyện với mèo. Từ đó, bên cạnh số tiện trợ cấp ít ỏi, Nakata trang trải cho cuộc sống đơn độc của mình bằng nghề tìm mèo lạc. Và chính nghề nghiệp kỳ lạ này đã mở ra cuộc hành trình định mệnh của Nakata, sau khi ông buộc phải đâm chét con quỷ giết-mèo-hàng-loạt hiện hình dưới nhân dạng Johnnie Walker. Cùng môn đệ Hoshino vốn là một tài xế xe tải, Nakata đã tìm đến Takamatsu, truy tìm và mở phiến đá cửa vào bí ẩn...
Với Kafka bên bờ biển, độc giả một lần nữa được gặp gỡ dịch giả Dương Tường, người từng được biết đến qua những bản dịch thành công như Đồi gió hú, Con người hoan lạc, Mặt trời nhà Scorta...và giờ đây là Kafka bên bờ biển.
Không khó khăn gì để nhận ra được tác phẩm của Murakami mang dáng dấp của một bi kịch Hy Lạp hiện đại, một nỗi ám ảnh đã được nhiều nhà tâm lý học gọi ra là mặc cảm Eudipe. Kafka là cậu bé mới mười lăm tuổi, nhưng cậu mang trong mình thế giới những nỗi đau khổ và dằn vặt của nhiều kiếp người. Luôn luôn sợ hãi lời nguyền rủa đầy thù hằn của cha: Mi sẽ giết cha mi và ngủ với chị và mẹ. Câu chuyện về Eudipe trong thần thoại đã quay lại một cách trực tiếp, như một nỗi ám ảnh không ngừng của con người: giết cha và loạn luân. Trong một bài phỏng vấn, Murakami nói rằng ông không hề nghĩ tới câu chuyện thần thoại kia khi bắt đầu cuốn sách, ông chỉ muốn nói về một cậu bé mười lăm tuổi bỏ khỏi ngôi nhà chỉ có người cha lạnh lùng để đi tìm mẹ. Nhưng rồi sau đó, ông chợt nhận ra câu chuyện của mình có sự tương đồng với câu chuyện của Eudipe. Và ông khẳng định rằng mọi sáng tác của các nhà văn đều có một liên hệ nhất định với những thần thoại cổ đại.
Cuốn sách cũng là một thế giới của hàng trăm điều kỳ ảo. Ở nơi đó, ranh giới giữa thực và mơ, giữa quá khứ và hiện tại không có sự phân biệt. Và những điều bí ẩn nhất, mơ màng nhất, đáng sợ nhất trong sự kỳ quặc siêu nhiên thường xuyên xảy tới, khiến cho nhân vật của Murakami dường như không ngừng kinh ngạc. Giải thích về điều này, nhà văn nói rằng: Với ông, việc sáng tác ra một cuốn tiểu thuyết giống như đang mơ khi ông vẫn thức, ông có thể mơ tiếp giấc mơ của ngày hôm qua, có thể mơ cả đời.
Nhân vật trong Kafka bên bờ biển , đa phần, đều có nhiều nét dị thường thường. Kafka quá khác so với tuổi mười lăm, cậu như đã sống từ trước đó rất lâu và giờ mới đang quay trở lại thế giới. Cuộc đời Nakata là một chuỗi bí ẩn này sang bí ẩn khác. Oshima là một người có giới tính không rõ ràng. Miss Saeki có tài năng thiên phú, phong thái cao quý nhưng thế giới nội tâm đầy đau khổ và đang héo mòn… Đó là một nét phong cách đặc trưng của Murakami. Những con người trong trang sách của ông không phải là những người nổi bật trong cuộc sống, vị thế của họ không có gì là cao cả và khiến tất cả phải kinh hãi hay ngước nhìn, nhưng họ luôn luôn khác thường. Sự khác thường của họ ẩn trong thế giới nội tâm đầy phức tạp, trong những biến đổi kỳ quặc tới với họ - và điều đó có nghĩa: nó sẽ tới với bất cứ ai trong chúng ta.
Cách kể chuyện song đôi của Murakami trong Kafka bên bờ biển là một trong những nét đặc biệt khi so sánh tác phẩm này với những tác phẩm khác của ông đã được xuất bản tại Việt Nam. Câu chuyện về cậu bé tự gọi mình là Kafka và Nakata như hai con sông nhỏ tách rời và hợp lại ở cuối truyện với điểm nối là Miss Saeki. Nakata là một thấu kính nhìn rõ được mọi điều, còn Kafka là người luôn lạc trong thế giới huyền hoặc. Và rồi cái chết của người này như dấu hiệu cho một cuộc sống “mới toanh” của người khác. Khả năng tư duy sáng tạo này cho người đọc thấy được Murakami không bao giờ là cũ.
---------------------- . ----------------------
Murakami: ‘Nhiều người nghĩ tôi là kẻ cuồng sex’
Larry McCaffery
Với những tiểu thuyết như Rừng Nauy, Biên niên ký chim vặn dây cót …, tên tuổi của Haruki Murakami đã vượt khỏi biên giới Nhật Bản. Dưới đây là cuộc phỏng vấn với Murakami về sáng tác, sex và cuộc sống của một nhà văn Nhật nổi tiếng ở phương Tây.
- Trong các bản kê khai tiểu sử, ông cho biết mình từng làm chủ một quán nhạc jazz trong nhiều năm. Tác phẩm của ông cũng có mối liên hệ với thể loại âm nhạc này. Nhạc jazz ảnh hưởng như thế nào đến các trang viết của ông?
- Một cách không chủ định. Jazz chỉ là sở thích riêng của tôi. Đúng là tôi từng nghe jazz 10 tiếng một ngày trong nhiều năm nên có thể tôi chịu ảnh hưởng sâu sắc: nhịp điệu, sự ngẫu hứng, thanh âm và phong cách. Việc quản lý một câu lạc bộ jazz có lẽ cũng tác động trực tiếp đến quyết định viết văn của tôi. Một buổi tối, tôi nhìn xuống quán bar và chứng kiến một số lính Mỹ da đen khóc vì nhớ quê nhà.
Trước đó, ở tuổi lên 10 hay 12, tôi đã chìm ngập trong nền văn hóa phương Tây - không chỉ có jazz mà còn cả Elvis và Vonnegut. Tôi nghĩ, việc tôi tìm đến những loại hình văn hóa này là một biểu hiện nổi loạn chống lại cha tôi (ông là giáo viên văn học Nhật) và những tư tưởng Nhật Bản chính thống. Từ lúc 16 tuổi, tôi không đọc tiểu thuyết Nhật Bản nữa mà tìm đến những nhà văn Nga và Pháp như Dostoyevsky, Stendhal và Balzac qua các bản dịch. Sau 4 năm học tiếng Anh ở trường phổ thông, tôi bắt đầu đọc văn học Mỹ tại các hiệu sách cũ. Nhờ đọc tiểu thuyết Mỹ, tôi thoát khỏi nỗi cô đơn của chính mình để được lạc vào một thế giới khác. Ban đầu tôi cảm thấy như mình đang chu du sao Hỏa lần đầu tiên, nhưng dần dà tôi thấy dễ chịu.
Nhưng tối hôm đó, khi chứng kiến những người Mỹ da đen khóc, tôi nhận ra, dù tôi có yêu nền văn hóa phương Tây bao nhiêu đi nữa, thì nó vẫn là cái gì đó ý nghĩa với những người lính này hơn là với tôi. Đó là nguyên nhân khiến tôi quyết định cầm bút.
- Ông thường vạch ra đề cương khi bắt đầu cuốn tiểu thuyết để biết câu chuyện sẽ đi đến đâu hay dùng cách khác?
- Tôi thường bắt đầu với một cái gì đó mà tôi không biết sẽ phải xử lý câu chuyện về nó như thế nào. Nên tôi chỉ viết dần dà chương thứ nhất, rồi chương thứ hai và cứ thế. Tôi không biết trước là chuyện gì sẽ xảy ra, dường như là nó tự ập đến.
- Cuốn tiểu thuyết “Rừng Nauy” mở ra cảnh một người đàn ông ngồi trên máy bay, rồi sau đó, toàn bộ cuốn tiểu thuyết hiện ra theo hồi tưởng. Đây chắc không phải là cảnh đầu tiên hiện ra khi ông bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết này?
- Vâng, đó thực sự không phải là cảnh đầu tiên khi tôi bắt đầu. Rừng Nauy là tiểu thuyết mở rộng từ một truyện ngắn. Triển khai thành cuốn tiểu thuyết giúp tôi khám phá ra những gì xảy đến với 6 nhân vật của cuốn sách: 3 người chết và 3 người sống sót. Nhưng tôi không biết ai chết và ai sẽ sống. Một trong những thú vui viết lách của tôi là tìm hiểu xem chuyện gì sẽ xảy ra. Mất sự hứng thú này, công việc cầm bút sẽ không còn ý nghĩa.
- Nhiều tiểu thuyết của ông được phát triển từ các truyện ngắn. Khi viết xong những truyện ngắn này, ông có ý thức rằng mình chưa kết thúc, vẫn còn điều gì đó phải viết, hay là phải mất một thời gian sau, vì một nguyên cớ nào đó, ông mới quay lại với câu chuyện và nhận ra: “Hừm, bây giờ mình hãy nghĩ xem, mình có thể làm gì thêm với nguyên liệu này”?
- Phải mất một thời gian nhất định tôi mới nhận ra rằng mình chưa thực sự kết thúc một truyện ngắn nào đó. 3-4 hoặc thậm chí là 6 đến 7 năm. Chỉ đến lúc đó, tôi mới ý thức được tác phẩm chưa hoàn thành, tôi cần phải viết một phiên bản dài hơn. Nhưng không phải tất cả các cuốn sách của tôi đều được thực hiện theo cách này. Ví như, tôi viết A Wild Sheep Chase (Một cuộc săn cừu hoang) như một cuốn tiểu thuyết ngay từ khi bắt đầu.
- Toàn bộ tiểu thuyết của ông đều viết từ ngôi thứ nhất. Có bao giờ ông có ý định viết truyện không bằng ngôi thứ nhất?
- Có, trong một lúc nào đó, tôi đã thử trần thuật từ ngôn thứ ba, nhưng không hiệu quả.
- Do nó không tạo sự hấp dẫn hay giọng kể không ổn?
- Khi viết từ ngôi thứ ba, tôi có cảm giác mình như Chúa trời. Mà tôi không thích làm Chúa trời. Tôi không thể biết tuốt, không thể viết về tất cả mọi thứ. Tôi chỉ là chính mình thôi. Tôi viết cái gì đó từ chính bản thân mình. Tôi không có ý nói tôi là nhân vật chính nhưng tôi phải mường tượng được những gì nhân vật chính của mình chứng kiến và trải nghiệm. Viết giúp tôi khám phá tiềm thức của bản thân. Đó cũng là quá trình tôi kể chuyện. Đó cũng là điều hấp dẫn nhất mà tôi từng làm. Với tôi, kể một câu chuyện cũng giống như là những gì xảy ra khi xuống phố. Tôi yêu đường phố nên mỗi khi xuống đường, tôi quan sát, nghe và cảm nhận mọi thứ. Khi làm như vậy, bạn sẽ cảm nhận sự thay đối của thế giới theo một cách thức riêng.
- Nhiều nhà phê bình Mỹ và Nhật cho rằng, tác phẩm của ông không mang tính Nhật Bản. Ông nghĩ sao?
- Với tôi, những ý kiến coi tác phẩm của tôi không mang tính Nhật Bản là rất hời hợt. Tất nhiên, tôi coi mình là một nhà văn Nhật. Tôi có thể viết theo phong cách khác, nguyên liệu khác nhưng tôi viết bằng tiếng Nhật, viết cho xã hội và con người Nhật Bản. Nên tôi nghĩ là mọi người đã sai khi liên tục cho rằng phong cách của tôi bị ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây. Như tôi vừa nói, ban đầu, tôi muốn trở thành một nhà văn quốc tế, nhưng rốt cuộc, tôi nhận ra rằng, mình chẳng là gì cả, mà chỉ là một nhà văn Nhật. Ngay từ đầu, tôi đã không chỉ vay mượn phong cách và nguyên tắc sáng tác của phương Tây. Tôi muốn thay đổi nền văn học Nhật Bản từ bên trong chứ không phải bằng hình thức bên ngoài. Nên tôi đã tự thiết kế ra nguyên tắc của riêng mình.
- Độc giả, đặc biệt là giới trẻ Mỹ phản ứng thế nào với các tác phẩm của ông?
- Tôi thấy rất thích thú khi tới thăm các trường đại học tại Mỹ và được biết sinh viên rất quan tâm đến văn hóa và văn học Nhật. Điều tôi chú ý là họ tìm đến một tác phẩm văn học đương đại Nhật Bản đơn thuần vì đó là một cuốn tiểu thuyết chứ không phải vì nó là tiểu thuyết Nhật. Họ đọc sách của tôi, hay sách của Amy Yamada và Banana Yoshimoto cũng như đọc García Márquez, Vargas Llosa và những tác giả Mỹ Latin khác vài năm trước đây. Các nhà văn đến từ nhiều quốc gia đang dần dà thay đổi nhau và tìm thấy độc giả toàn cầu một cách dễ dàng hơn. Đây là một thế giới nhỏ bé và ngày càng trở nên nhỏ bé hơn. Tôi nghĩ đấy là điều tuyệt vời.
- Philip K. Dick là nhà văn có những ảnh hưởng đến các tác phẩm của ông, đặc biệt là “Dance Dance Dance”. Ông đọc tác giả này từ sớm hay mới đọc thời gian gần đây?
- Thực ra tôi không phải là độc giả lớn của Philip K. Dick. Mọi người đều đánh giá ông là nhà văn vĩ đại. Nhưng tôi chỉ mới đọc 2 hay 3 tác phẩm của ông. Tôi thích Vonnegut và Stephen King hơn. Tôi cũng thích những nhà văn Mỹ khác như Tim O'Brien và John Irving hay những tác giả Mỹ Latin như García Márzquez và Borges.
- Khi đọc phần lớn những tiểu thuyết có cảnh sex, tôi nhận ra rằng, khi ông miêu tả sex, tác phẩm thường xuất hiện một đường nối, một khoảng đứt gãy mà dường như cuốn sách trở thành một thứ gì đó khác, sau đó mới trở về với đoạn bỏ dở trước đó. Nhưng trong “Rừng Nauy”, sex được miêu tả rất phù hợp với các yếu tố khác, rất tự nhiên và thuyết phục. Ông nghĩ sao?
- Ồ, cảm ơn. Nhiều độc giả lại cảm thấy khó chịu vì những cảnh sex trong Rừng Nauy. Tôi không hiểu tại sao, nhưng những trang miêu tả tình dục đã khiến cho nhiều người bối rối, ngay cả ở Nhật Bản. Nên nhiều người nghĩ tôi là kẻ khiêu dâm, thậm chí là kẻ cuồng sex (cười). Nhưng tất nhiên, tôi không phải như vậy. Tôi thích miêu tả tình dục vì nó là một phần rất quan trọng của cuộc sống.
- Tại sao ông lại sang Mỹ sống?
- Tôi từng sống ở châu Âu trong 3 năm, hầu hết là ở Hy Lạp và Italy, khoảng giữa đó là 1 năm sống ở Nhật Bản. Tôi rời khỏi Nhật Bản vì thành công mà những cuốn tiểu thuyết mang lại khiến tôi khó mà sống và viết ở quê hương. Tôi đã trở thành người nổi tiếng - một điều rất phiền toái. Rồi tôi nhận thấy, châu Âu là một địa điểm lý tưởng - ở đây đẹp và thú vị - nhưng cũng không phải là nơi thích hợp để làm việc. Ở Italy, phần lớn người dân là người Italy; ở Hy Lạp thì chủ yếu là người Hy Lạp, nên tôi luôn cảm thấy mình là người ngoại quốc, ngoài cuộc và xa lạ. Sống ở Mỹ, tôi không có cảm giác đó. Điều tôi thích khi sống ở Mỹ là tôi cảm thấy được tự do. Tôi thấy như mình cũng là một người Mỹ, nên dễ dàng tiếp xúc và làm bạn với mọi người. Tôi có thể tập trung vào công việc sáng tác bởi ở đây, tôi không phải là người nổi tiếng. Không ai quan tâm đến tôi cả .