Over and over I whisper your name. Over and over I kiss you again
TT&NT

Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhận định-phê bình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhận định-phê bình. Hiển thị tất cả bài đăng

4.6.09

CHỌN THỞ HAY KHÔNG THỞ


Tác giả: Phạm Thị Điệp Giang

Hồi lâu lâu, có cô bạn kể xem một bộ phim mang tên Hơi thở (Breath) của Kim Ki-duk. Cô bảo xem chẳng hiểu gì. Nội dung chỉ như thế này: Một cô điêu khắc suốt ngày ở nhà làm việc, một ngày nọ thấy trên tivi đưa tin có một anh chàng trong nhà tù cố gắng tự sát lần thứ hai. Mấy ngày liền, bản tin đó được đưa đi đưa lại, người ta không hiểu nguyên nhân vì sao anh ta cố tình kết thúc cuộc sống của mình. Người chồng cô này thấy vợ chỉ coi mấy loại tin thời sự đó, khuôn mặt ủ dột thì nói cô ra ngoài tiếp xúc gặp gỡ ai đó. Tình cờ một ngày, cô phát hiện chiếc cặp tóc phụ nữ trên xe hơi của chồng.
Trong một lúc chán nản sau khi cãi nhau với chồng, cô bắt taxi chạy suốt đêm tới nhà tù nơi người đàn ông trong bản tin bị giam. Cô đợi tới sáng, nói dối là bạn gái cũ của người tù, sau khi đã không được chấp nhận một lần, bảo vệ lại cho phép cô vào thăm.
Người tù ngạc nhiên khi có người tới thăm. Vì dùng cán bàn chải đánh răng đâm vào họng tự sát, nên anh này không có khả năng nói. Khi báo tin có khách tới thăm, một nam tù nhân cùng phòng, vốn yêu anh này, nhìn theo người tù đầy nghi hoặc. Tâm trạng của người tù cũng chẳng khác gì. Anh bước tới phòng gặp với người phụ nữ xưng là bạn gái cũ, lắng nghe cô kể về cảm giác đã từng chết trong năm phút vào lúc 9 tuổi. Rồi anh ra hiệu cô ghé tới gần tấm nhựa ngăn cách có những lỗ thủng nhỏ và giật một sợi tóc của cô.
Khi trở về, người phụ nữ đột nhiên trở nên có cảm giác vui vẻ trở lại. Rồi cô quay lại thăm người tù, mỗi một lần mang tới những tờ tranh trang hoàng phòng gặp, với chiếc đài phát bản nhạc và mặc những bộ đồ từng mùa: Xuân, Hạ, Thu. Cùng những lần thăm ấy, tình cảm giữa hai người tiến triển, từ mở miệng cùng nhau cười, tới chớm môi, rồi hôn sâu. Sau mỗi lần, người đàn bà trao cho người đàn ông một tấm hình, lúc là cô con gái nhỏ của người đàn bà đang cười tươi giữa hoa chindale, khi là hình người đàn bà ở biển, và lần hôn sâu cuống quýt không thể rời, là hình người đàn bà nghiêng người khỏa thân. Từ đó người tù ngày đêm mơ tưởng tới người đàn bà, khiến cho người yêu đồng tính cùng phòng của anh ghen tuông, căm giận, nhượng bộ rồi hận thù.
Rồi người chồng phát hiện ra, anh chấm dứt quan hệ ngoại tình của mình và mong muốn người vợ quay lại. Nhưng người vợ cố tình vẫn tới nhà tù. Cho tới ngày anh tới tù đưa vợ về, trên đường xảy ra một tai nạn.
Người vợ, trước sức ép của chồng và vì thương con, nén lại không tìm tới nhà tù nữa. Còn người tù, anh được người chồng cho biết cô ấy sẽ không bao giờ quay lại.
Nhưng rồi, khi vết thương của vụ tai nạn đã bị xóa đi, khi tivi lại phát tin tù nhân nọ thêm một lần cố tình tự sát bằng cán bàn chải, người vợ quyết định tới thăm người tù một lần nữa. Lần này, người chồng và đứa con nhỏ đang ngủ cùng đi. Cô đến và chẳng có gì cả, không tranh, không cát sét, chỉ có bộ váy ngủ màu đen nằm sau chiếc áo khoác. Cô và người tù làm tình với nhau, trước chiếc camera giám sát của trại giam. Khi lên tới đỉnh, cô dùng hết sức mình bịt mũi, hôn và cố gắng cắn chiếc lưỡi của người tù. Anh ta giãy dụa, và người giám ngục phải tìm mọi cách mới lôi được họ ra, đầm đìa máu.
Kết thúc phim, người đàn bà trở ra ngoài cổng trại, nơi tuyết đang rơi. Đứa con nhỏ và chồng đang ném tuyết, cô cùng tham gia trò chơi với họ. Trên đường về, vợ và chồng cùng hòa giọng hát ca khúc “Tuyết rơi” (Tombe la neige). Còn người tù, hắn quay trở lại gian phòng với 3 tù nhân khi trước. Trong đêm, hắn lại co quắp trong vòng tay người tình đồng tính. Như thể chưa có chuyện gì xảy ra.
Kim Ki-duk quen thuộc với nhiều khán giả Việt Nam qua bộ phim “Xuân, Hạ, Thu, Đông rồi Xuân”. Sau này, ở VN dễ dàng tìm được bộ đĩa 7-8 film của ông. Phim Kim Ki-duk thường đẩy nhân vật tới tận cùng nỗi đau, thông qua tình dục để bày tỏ nỗi đau, biểu lộ nó, giải thích nó và hóa giải nó. Không chỉ mang trong nó những giáo lý Khổng tử của nền văn hóa Hàn, nó còn thấm đẫm tinh thần Phật giáo với ý niệm về sự luân hồi, vay trả, về nghiệp và trả nghiệp,…
Xem Breath, có lẽ nên phải dịch là Thở, chứ không phải Hơi thở như những đĩa phim bán bên ngoài có ghi. “Thở” ở đây là trạng thái của Sống, của Hưởng, của Hiện tại. Thở và Không Thở là hai mặt đối lập nhau như giữa Sinh và Tử. Khi con người biết cách Thở, họ biết cách thấu nhận và thụ hưởng những giá trị của cuộc sống. Khi họ không tôn trọng và từ chối Thở, họ từ chối cuộc sống, hoặc bị cuộc sống chối bỏ.
Nói về hình ảnh người đàn bà. Khi 9 tuổi, trong một lần ra hồ bơi, để tham gia một trò chơi, cô bịt mũi rồi lặn sâu xuống nước. Khi đó cô không thở. Rồi cô cảm thấy nước tràn vào mí mắt, và người phồng lên như một quả bóng. Khi nổi lên, bạn bè cô bảo cô đã chết trong vòng năm phút.
Trong năm phút đó, người đàn bà trải nghiệm cảm giác của cái chết. Đó là cái chết cô tạo ra nhưng vô thức. Khi ở cảm giác của cái chết, cô hiểu rằng cô không muốn điều đó. Cô quẫy đạp để mình được sống trở lại. Nhưng khi sống trở lại, cô chối bỏ hiện thực. Hiện thực cuộc sống là một người cha hay dùng cành hoa để đánh đau cô vì cô hay vẽ linh tinh vào tập vở. Nỗi đau ngày nhỏ ám ảnh tới nỗi cô ghét cay đắng loại hoa cha đã dùng cành để đánh mình. Ở Hàn Quốc, đó là một thứ hoa có màu vàng rực rỡ, nở vào mùa xuân, khắp núi đồi thành phố, với mùi hương ngọt ngào lan tỏa khắp không gian. Lẽ ra khi loài hoa ấy nở rộ, lòng người phải vui vì những ngày tuyết dài đã kết thúc. Nhưng ký ức của người đàn bà chỉ là nỗi đau.
Khi tìm đến người tù, người đàn bà muốn được sẻ chia nỗi đau ấy. Cô tìm thấy mối đồng cảm giữa việc người tù cố tình chối bỏ cuộc sống với cảm giác chối bỏ cuộc sống của chính mình. Vì lẽ ra sau khi sợ hãi vì lần chết hụt hồi 9 tuổi tới mức không dám bước chân tới hồ bơi, cô phải sống khỏe lên để xa rời cảm giác ấy. Nhưng cô lại luôn tìm lại nó. Thi thoảng cô cố tình tạo ra cảm giác đó để trầm mình vào. Vì cô không có được sự tươi vui của đứa con gái nhỏ, không cảm thấy sự quan tâm của người chồng, và những người bạn xung quanh cô chỉ là những bức tượng câm lặng, cô có thể tạo ra cũng có thể phá hủy.
Trong ba lần đến thăm người tù dưới việc mang tới cảm giác mùa Xuân, mùa Hạ và mùa Thu, ta gặp lại ẩn dụ về vòng tuần hoàn và vòng tròn thời gian kiểu Kim Ki-duk. Những giai đoạn vui tươi rộn rã của ngày mùa xuân và giọng hát của cô cùng hình ảnh hoa chindale hồng rực dán kín căn phòng chính là tượng trưng cho hình ảnh đứa con gái nhỏ. Một thực thể hiện hữu trong đời sống mà cô đang chối bỏ. Chỉ có thể tìm lại khi tới nhà tù. Hình ảnh của mùa hè với biển xanh cát trắng chính là tái tạo lại cô của ngày thơ ấu với cái chết dưới hồ bơi. Và mùa thu với lá đổi màu ở núi Seorak, chính là nơi gặp gỡ đầu tiên của cô và chồng, để rồi dẫn đến cuộc hôn nhân không như ý.
Tình cảm mà cô mang đến cho người tù, đó là thứ tình cảm ích kỷ, chứ không phải là tình cảm Cho Đi như người ta thoáng thấy. Mỗi một lần tìm đến và cho người tù một chút tình cảm, từ sự chia sẻ tới cái ôm rồi cái hôn, cô lại tìm thấy mình nhiều hơn, lại nhận ra những gì mình đang có rõ rệt hơn.
Đỉnh điểm của việc cho là hành vi làm tình với người tù trong lần đến cuối cùng, cũng là lần cô mang tới mùa Đông. Đó là lần-gặp-mùa-đông trong căn phòng, cũng là lúc mùa đông đang ở bên ngoài trại tù. Mùa đông ẩn dụ và mùa đông của thực tại lúc này nhập làm một. Khi làm tình với người tù, cô giải phóng tất cả những ẩn ức đã dồn nén, đồng thời cũng muốn triệt tiêu cảm giác đau thương mà cô đã cố tình nhấn chìm mình vào. Việc cố tình giết người tình tù nhân cũng giống như cô cố gắng để loại bỏ bóng ma ám ảnh của tuổi thơ, của sự-muốn-chết khi nhận ra cuộc sống của cô là ở bên ngoài kia, là thực tại đã bấy lâu cô chối bỏ, là sự sai lầm của người chồng và việc nhận ra sai lầm của anh, là đứa con nhỏ lẽ ra phải được nhí nhảnh như tuổi của nó nhưng cứ luôn u sầu vì sự buồn bã và lặng lẽ của cả cha lẫn mẹ,…
Để cho nhân vật người tù không có khả năng phát âm (do vết thương liên tục ở họng mỗi lần anh cố ý tự sát), Kim Ki-duk đã nỗ lực thể hiện các cung bậc của Thở qua Hơi thở và động tác Thở ở nhiều tình huống và chi tiết của film.
Lần đầu cảm động vì câu chuyện của người đến thăm, tù nhân khi hết giờ thăm đã phả luồng hơi và đặt lên mặt vách ngăn trong phòng gặp một nụ hôn. Trong đêm tối, những âu yếm của anh và người tình đồng giới cũng thể hiện qua tiếng thở. Khi cùng người đàn bà, tiếng thở đó lại được làm sâu hơn nữa ở nhiều cung bậc: thở ức nghẹn (nguyên nhân phạm tội của anh không rõ ràng, chỉ biết anh ở cùng phòng với vợ và con gái bị sát hại và họ nghi anh là thủ phạm), thở giao hòa (với cuộc sống), thở khao khát (khi làm tình với người phụ nữ - đối tượng anh thèm muốn, chứ không phải người tình đồng giới kia (vì gò ép và thiếu thốn, chứ không vì bản năng tự nhiên), thở đuối sức kiệt quệ (khi bị người đàn bà cố tình cắn lưỡi), thở lấy lại hơi thở của cuộc sống (sau khi người đàn bà rời ra). Chính hơi thở này chứng tỏ anh ta vẫn yêu cuộc sống này. Lẽ ra, nếu như anh ta đã từng cố tình tự sát 3 lần mà không thành, anh ta phải mau chóng đón nhận cái chết đến trong lần này, nhưng anh ta lại vùng vẫy để thoát ra khỏi nó. Bởi tự đáy lòng anh ta, anh ta vẫn muốn sống. Bởi chỉ trong khi sắp chết, người ta mới ý thức được mình thèm sống và cần sống tới mức nào. Bởi chỉ trong giây phút mong manh nhất của sự Sống và cái Chết, người ta mới thấu nhận trọn vẹn nhất cảm giác Sống và Hiện tại này. Bởi vì, mỗi người gánh một cái Nghiệp. Cái Nghiệp này phải tự gánh, không ai gánh nổi hộ ai, không ai trả nổi hộ ai. Hành vi cố ý tự sát kia, cũng giống như cô gái, chỉ là cách để anh ta cố gắng giải thoát một nỗi ẩn ức nào đó, chứ không phải để kết thúc cuộc đời mình. Và nỗi ẩn ức đó là gì, vẫn còn là bí mật!
Bộ phim còn nhiều ẩn dụ hơn nữa. Ví như hình ảnh bức tượng thiên thần mà người đàn bà nặn. Đó là một bức tượng dang dở, thiên thần bị gãy cánh, nhưng người đàn bà vẫn tiếp tục đem nung nó. Để khi trở về sau giai-đoạn-nhà-tù, chị quyết định đập tan đi. Đó là hình ảnh về việc người phụ nữ làm rơi áo chồng khi phơi từ ban công, khi không cảm thấy sự gần gụi của anh, chị bỏ chiếc áo bẩn (bị xe hơi chẹt qua) vào sọt rác ven đường. Khi thấy được sự quay-đầu của chồng, chị mang lên cất lại. Hay hình ảnh về những nắm tuyết được ném đi theo vòng tam giác trong trò chơi ném tuyết của gia đình người phụ nữ khi cô bước chân từ cổng nhà tù ra với đôi môi bầm máu vì nụ hôn giết người. Tuyết rất dễ tan, mọi thứ khó khăn cũng như nắm tuyết ấy, khi đã nắm được lại, và ném đi thì rồi cũng sẽ tan biến. Hoặc ẩn dụ về chiếc camera trong trại giam. Chiếc camera là nhân chứng im lặng trong suốt quá trình tìm lại mình của người đàn bà, nó chỉ đi theo và ghi lại, chứng kiến và im lặng, giống như những người theo dõi bộ phim. Việc Hiểu hay Không hiểu, chọn cách Thở hay Không thở, hãy cứ để người coi tự quyết định.
Trong Breath, Kim Ki-duk không mài nhuyễn mọi hình ảnh đẹp đến run sợ như trong Xuân, Hạ, Thu, Đông rồi lại Xuân như mọi người thích thú. Gam màu trầm và lạnh phản ánh mùa đông hiện thực, góc quay bình thường, đôi lúc sử dụng những cảnh quay kém chất lượng (thông qua màn hình camera trại giam). Nhưng điểm thú vị và gợi tả nhiều nhất là những bài hát được chọn cho bốn mùa tượng trưng trong bốn lần người đàn bà đến thăm người tù. Đó là những bài hát rất quen thuộc, không chỉ với người Hàn mà với nhiều người nghe trên toàn thế giới, đã được dịch qua nhiều thứ tiếng thông dụng như Anh, Pháp,… Cả ở Việt Nam. Tôi nghĩ, đó là cách để giảm tải nhiều hơn cảm giác căng cứng của khán giả khi coi phim, cũng là cách tiếp cận khán giả gây thiện cảm nhiều hơn, bên ngoài ý nghĩa chính của nó là nội dung bài hát nhằm dẫn dắt người xem qua nhiều cung bậc của sự thay đổi về nhận thức được ý nghĩa Sống của nhân vật chính – người đàn bà.

26.2.09

HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG TRONG "BNKCVDC"

Tác giả : Nguyễn Anh Dân
1. Cảm thức biểu tượng hóa trong tư duy tiểu thuyết huyền ảo đã tạo nên một thế giới biểu tượng hết sức đậm đặc và sinh động trong “Biên niên ký chim vặn dây cót”. Hệ thống biểu tượng trong tác phẩm khá đa dạng từ vật thể đến con người, đó hoàn toàn có thể là một kiểu trò chơi biểu tượng của Murakami.
Hầu hết các thông điệp, các ý nghĩa tầng ngầm cũng như các phương thức nghệ thuật đều có mối quan hệ mật thiết với biểu tượng, thông qua biểu tượng để khám phá tác phẩm. Và quả thực, đây không phải là một tác phẩm dễ giải mã khi mà trong nó ngồn ngộn hệ thống ký hiệu quy ước của cá nhân - những biểu tượng của tác giả.
2. Biên niên ký chim vặn dây cót được bắt đầu bằng sự biến mất của con mèo Wataya Noburu, đó là dấu hiệu của sự tan vỡ hay một sự biến đổi quan trọng, đúng lúc đó Kumiko đã biến mất sau sự ra đi của con mèo - đó là sự ra đi theo tiếng gọi bầy đàn như con mèo của cô. Con mèo là biểu tượng của sự tan vỡ và thay đổi dòng chảy.
Chiếc giếng cạn ở Nội Mông cũng như chiếc giếng trong căn nhà hoang là hai biểu tượng có mối quan hệ với nhau: một bên là điểm đến của sự mặc khải, một bên là điểm bắt đầu của sự tìm kiếm mặc khải. Nó đồng thời là một biểu tượng của sự vô cảm, của hành động tuyệt giao với thế giới bên ngoài, đó là sự phủ nhận niềm tin của tư duy vào đời sống hiện thực ngoài kia: “Nó toát lên một cái gì đó có thể gọi là 'sự vô cảm tuyệt đối'. Có cảm giác như chỉ cần ta rời mắt khỏi khung cảnh này, lập tức những vật vô tri sẽ càng vô tri hơn nữa” [tr.80]. Xuống giếng với Toru Okada là hành trình tìm kiếm chân lý và đúng như Honda đã nói: “Hễ đi lên thì phải chọn ngọn tháp cao nhất mà trèo lên đỉnh. Hễ đã đi xuống thì hãy tìm cái giếng sâu nhất mà chui xuống đáy” [tr.64]. Con người ta chỉ có thể tìm được chân lý khi đã đến được với đỉnh cao tuyệt đối để quan sát hay đến tận cùng của khổ đau để chiêm nghiệm, chẳng dễ gì đạt đến đốn ngộ khi sống ở giữa lưng chừng.
Cuộc sống của những con người hiện đại trong Biên niên ký chim vặn dây cót là một cuộc sống lưng chừng như thế, họ bị bó hẹp trong khoảng không gian tù túng, chật hẹp của xã hội tựa như ngôi nhà hoang, như cái ngõ cụt mà Toru Okada đi tìm kiếm con mèo. Đó là một không gian thiếu sức sống, bị bỏ quên giữa dòng đời ồn ào, náo nhiệt - một sự lãng quên chua xót: “Nó vẫn đứng nguyên đấy, lặng ngắt như mọi khi. Trên nền trời xám trĩu nặng, căn nhà hai tầng với những cánh cửa đóng im ỉm trồi lên đen thẫm…” [tr.72]. Con người hiện đại cũng đang bị lãng quên như thế, họ cũng đang lãng quên người khác như thế, và cuối cùng số phận của họ cũng như cái tượng chim không tâm hồn, bất động trong ngôi nhà hoang ấy mà thôi.
Tất cả họ cần những ánh sáng mặc khải như thứ ánh sáng huyền nhiệm của mặt trời Nội Mông nhưng dễ gì có được với họ, nó đã trở thành quá khứ, nó không còn tồn tại ở hiện tại. Vậy nên cái biểu tượng của sự cứu rỗi ấy cũng trở nên xa vời đối với những con người đang bị kìm kẹp trong dục vọng của đời mình.
Dấu hiệu duy nhất của sự mặc khải hiện tại nằm trong vết nám trên khuôn mặt của Toru Okada. Dường như đó là sự đánh dấu của lịch sử trên gương mặt của người được lựa chọn - anh được lựa chọn để cứu rỗi con người ra khỏi những đày đọa của chính họ. Và quả thực anh đã làm được điều mà người ta trông đợi mặc dù tưởng chừng anh đã phải bỏ cả mạng sống của mình, đó là biểu hiện cao đẹp của những con người dấn thân: “…Và trong khi làm vậy, anh cũng đã cứu được nhiều người. Nhưng bản thân mình thì anh lại không cứu được. Anh đã dốc cạn sức mình, đem cả tính mạng mình ra để cứu người khác. Hạt giống của anh thảy đã gieo chỗ khác hết rồi, giờ túi anh rỗng không…” [tr.687].
Quả thực nếu viên bác sĩ thú y là tiền kiếp của Toru Okada thì chính anh chứ không phải người đàn ông kia đã thực hiện được thiên sứ của mình, có thể viên bác sĩ ý thức được sự vần chuyển của thế giới nhưng không đủ sức để vần xoay nó: “Từ khi còn trẻ anh đã có một nhận thức minh bạch kỳ lạ rằng: “Ta với tư cách cá nhân, đang sống dưới sự kiểm soát của một thế lực ở bên ngoài ta”. Đây hẳn vì vết bầm màu xanh dương sống động trên má phải của anh” [tr.592]. Còn Toru Okada với sự dấn thân của mình, anh đã chiến đấu để chống lại cái trật tự cuồng loạn của hiện thực để cứu người vợ mình, cứu thêm nhiều người khác, để cái dòng chảy bị ngăn trở trở nên khai thông.
Vấn đề là họ cần một thứ công cụ để khai thông, xét cho cùng, ngoài vết bầm trên mặt thì cây gậy bóng chày có mối quan hệ mật thiết với Toru Okada và viên bác sĩ hơn cả. Nếu trong thời điểm trước đó, cây gậy bóng chày là thứ vũ khí mà toán lính Nhật hành quyết cậu thanh niên người Mãn Châu Quốc thì sau này, nó là cây gậy để giải quyết cuộc đời của Wataya Noburu. Trước đó nó dùng để đánh vào đầu kẻ thù và viên bác sĩ thú y cũng bị kéo vào lòng cái chết. Sau này nó cũng được dùng để đánh vào kẻ thù nhưng không phải là thứ kẻ thù ngoại bang mà là đồng quốc với chính mình. Hẳn đó là một kết cục đau xót cho tội ác hay là một thứ thông điệp về quy luật nhân quả: tội ác không có biên giới và mọi tội ác đều phải trả giá.
3. Trong tác phẩm này, Murakami đã sáng tạo ra một hình tượng -biểu tượng độc đáo, xuyên suốt toàn tác phẩm, nó cũng chính là điểm sáng thẩm mỹ của tác phẩm: biểu tượng chim vặn dây cót. Nó hoàn toàn là một loài chim tưởng tượng, không hề tồn tại trên thế gian, nó chỉ tồn tại trong phạm vi cái ác và chỉ một vài người trong nhân loại nghe được. Tiếng kêu “quick… quick…” của nó chỉ vang lên với cậu bé trong đêm, với hai người lính trong vườn thú Tân Kinh và với Toru Okada. Nghe được âm thanh của chim vặn dây cót cũng là nghe tiếng gọi của tử thần. Hai người lính trong vườn thú năm nào đều bỏ mạng ở Siberia, một người bị đập toác sọ, một người chết đói, cậu bé trong đêm mất đi giọng nói của mình theo tiếng kêu của con chim kỳ lạ, Toru Okada thì suýt mất mạng. Tiếng chim vặn dây cót chỉ vang lên trong những thời khắc quyết định khi mà cái ác sắp thành hình, khi mà con người đang rõ ràng trượt khỏi quỹ đạo của tính thiện. Đó là tiếng kêu của ý thức để lay động những cơn vô thức tập thể đang cuồng điên trong thế giới loài người. Tiếng kêu ấy trở thành biểu tượng của sự cảnh báo để con người lập lại cân bằng cho chính mình và cho xã hội đồng thời nó cũng là tiếng thúc giục con người đi tìm chân lý, xóa bỏ đi “lời nguyền” mà chim vặn dây cót đem đến. Nó là biểu tượng của sự cứu rỗi. “Tiếng hót của chim vặn giây cót trở thành biểu tượng sự thức tỉnh những xúc cảm mãnh liệt và sự trưởng thành về bản ngã của con người trong đời sống hiện đại. Đó chính là ý nghĩa của hình tượng chim giây cót xuyên suốt cuốn tiểu thuyết lớn của Haruki Murakami”. (Khánh Phương - eVăn).
4. Trò chơi biểu tượng còn được Murakami biểu tượng hóa trong từng nhân vật, mỗi nhân vật là một biểu tượng - trước hết là biểu tượng cho chính mình. Trong thế giới nhân vật ấy, có những con người biểu tượng cho quyền lực, cho nhục dục như Wataya Noburu, có những con người biểu tượng cho nỗi nhục quá khứ như Mamiya… Mỗi người trong số họ đều chứa những mâu thuẫn nhất định. Kumiko vừa muốn đi theo tiếng gọi của dục vọng nhưng lại từ chối giữ lại cái thai của mình, chắc chắn đó phải là đứa con của vợ chồng cô nhưng cô lo sợ những phẩm chất của mình sẽ trỗi dậy trong cái hình hài bé nhỏ kia, đó là một hành động đoạn tuyệt với cái ác. Người nghệ sĩ mang hộp đàn guitar đi truyền tải thông điệp đồng cảm đến người khác nhưng đồng thời lại tấn công Toru Okada - biểu hiện trái ngược với những gì anh đã nói, nhưng rất có thể đó là hành động để thức tỉnh cơn mê ngủ của Toru Okada - một cách thức tỉnh đầy bạo lực… Những mâu thuẫn ấy nằm trong bản chất của sự vận động và phát triển của đời sống xã hội. Thế giới của Biên niên ký chim vặn dây cót đầy rẫy những vô thức cá nhân và vô thức cộng đồng đang trỗi dậy. Nó đòi hỏi sự phá vỡ trật tự một cách không khoan nhượng để lấy lại cái phần ý thức người mà mỗi một cá nhân đang tìm kiếm. Sự mâu thuẫn là động lực để tồn tại và phát triển của con người hiện đại.
5. Hệ thống biểu tượng của Biên niên ký chim vặn dây cót đa dạng và phức tạp, nó trải dài trên các bình diện không gian, thời gian, nhân vật đến cấu trúc, kết cấu. Từ ngôi nhà hoang, giếng cạn, ánh sáng mặc khải, khách sạn mơ… đến quá khứ, lịch sử hay Toru Okada, Kasahara May, Kumiko, Wataya Noburu… Chúng đã tạo nên một thế giới biểu tượng nhiều màu sắc kết hợp trong những cấu trúc truyện kể độc đáo đã góp phần chuyển tải những thông điệp sâu sắc của Haruki Murakami đến với người đọc.

Nhận định : MỤ PHÙ THỦY VÀ ĐÔI MÔI MỀM

Galatea Khải Hoàn ( The Triumph of Galatea ) - Raphael ( 1511)
Tác giả : T.Vấn
1.
Người đi soi cội tìm nguồn Nghe trong cơ thể hao mòn khớp xương
( Ngô Tịnh Yên )
Tập thơ không dày lắm – 20 bài -. Như lời tác giả, con số 20 tượng trưng cho tuổi đôi mươi, tuổi của tình yêu. 20 bài Lục Bát Khỏa Thân.
Tại sao là Lục Bát Khỏa Thân ?
Nói đến Lục Bát, người ta nghĩ ngay đến hai câu thơ nằm kề. Câu Sáu là Adam, mở lòng mình ra, mở cả thân xác mình ra để đón câu Tám – E-và – bước vào cõi Thiên đường , bước vào lấp cho đầy chỗ cụt của xương sườn. Cái vần của Nguồn trong câu Sáu – Người đi soi cội tìm nguồn – phải vận với Mòn trong câu Tám – Nghe trong cơ thể hao mòn khớp xương – Cái mẩu xương bị lấy ra – tình nguyện cho lấy ra – để được bàn tay mầu nhiệm biến thành kỳ quan tuyệt vời nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Thượng Đế. Dẫu cho sau đó là cả một nhân loại dại khờ suốt chiều dài lịch sử của mình.
Khỏa Thân là một đất trời trọn vẹn, một đất trời của thuở hồng hoang trong vườn địa đàng. Khỏa thân là thực tại bằng xương bằng thịt của khái niệm Tình Yêu, là điều kiện Đủ của nhị nguyên triết học, của nhị nguyên trời đất, nhị nguyên âm dương, của nhị nguyên Trăng và Mật , của nhị nguyên Lục Bát và Khỏa Thân.Như những nét minh họa của nữ họa sĩ tiếng tăm Nguyễn thị Hợp, nằm rải rác suốt tập thơ mỏng manh. Những “ .. Giai nhân nằm phơi lõa thể . Bên Ni phố vắng . . . “ (Phạm Duy ).
2.
Cầm tập thơ, tôi có cảm tưởng hai người nữ – thi sĩ và họa sĩ – đang đùa cợt nhân loại đàn ông chúng tôi,một nhân loại của những tên đàn ông ngờ nghệch, những tên đàn ông vốn nòi tình - ai mà không phải nòi tình trừ phi người ấy không có tim và không có một thân xác . . . bình thường ? – những tên đàn ông tuy cha mẹ sinh ra nhưng bà mụ cợt nhả lén đặt một nốt ruồi bên ngực trái ( chỗ ở của trái tim ) và một nốt ruồi chỗ khởi đầu của cuộc nhân sinh ba vạn sáu ngàn ngày ngắn ngủi.
Đùa cợt hơn tất cả là trang bìa. Màu ngồn ngộn chết người của da thịt , màu trắng của gối chăn và màu hồng nhạt của tình yêu. Ôi món xa xỉ của những người đạo đức ( giả) . Cái màu sắc tổng hợp ấy đã ám ảnh tôi từ lúc đủ trưởng thành để nhìn người nữ bằng con mắt của một người nam, nghĩa là đã từ lâu lắm rồi - có thể đã từ nhiều ngàn năm về trước, thuở chưa có bộ kinh tình Kama Sutra , Ananga Ranga, hay trường tình Tantra – nay hiển hiện lồ lộ trên trang bìa tập thơ. Những sắc màu và hình ảnh nhảy múa như cây đũa độc ác mà đầy quyến rũ của Mụ Phù Thủy.
Làm tôi nhớ đến thuở đầu đời làm bài thơ vụng dại có nhan đề “ Mụ phù thủy và đôi môi mềm “ đăng trên Đặc San Xuân trường Trung Học Petrus Ký niên khóa 69-70 khiến vài thằng bạn choai choai cùng trang lứa cứ chạy theo hỏi một câu rất” con nít”: Tại sao phù thủy mà môi lại mềm được hả mày ? Hỡi ôi cái lũ bạn đang còn cắp sách đến trường để học hỏi những điều khôn ngoan ấy chưa đủ . . . ngờ nghệch để hiểu rằng trên thế gian này duy nhất có một điều người ta cần sự ngờ nghệch để hiểu cho đến tận cùng là “ Tình Yêu “. Vậy thì làm sao tôi có thể cắt nghĩa cho chúng hiểu tuy là phù thủy mà môi vẫn cứ mềm. Còn mềm hơn bất cứ môi . . . mềm là đằng khác – môi em mềm cho giấc ngủ anh thương ( NĐT) –
Thuở ấy, tôi đã nhiều đêm khó ngủ khi nghĩ đến những đôi môi mềm, nhất là môi mềm của phù thủy. Bây giờ, những thằng bạn tôi ngày ấy, chắc hẳn đã đủ “ ngờ nghệch “ để tự mình trả lời cho câu hỏi “ ngờ nghệch “ năm xưa.
( Những người bạn “ ngờ nghệch” ở Petrus Ký năm xưa của tôi nay có người đã là ông nội, ông ngọai, có người vẫn tiếp tục “ ngờ nghệch “, dù bao nhiêu năm lao vào trường đời vẫn chẳng học hỏi được gì hơn – trong lãnh vực tình yêu. Có đôi dịp, gặp lại nhau, câu chuyện về những ngày hoa niên đẹp đẽ ấy đi lòng vòng thế nào rồi cũng quay lại với những “ đôi môi mềm” tưởng tượng, những buổi chiều Sài Gòn chợt mưa chợt nắng tâm hồn lũ choai choai đột nhiên muốn “ nổi lọan”, “ đi hoang “. Những buổi chiều hè nhau trốn học để chẳng làm gì khác hơn là quanh quẩn trước cửa trường con gái Gia Long, Trưng Vương chờ đón những thiếu nữ chưa hề một lần quen biết, với cái rạo rực thật đáng yêu là cầu may làm quen được một người, để trong những đêm khó ngủ, tưởng tượng ra trăm ngàn chuyện thần tiên như lời “sấm truyền” đã phán : Chốn khuê phòng Petrus Ký bắt chí Gia Long - và cả Trưng Vương nữa- )***
3.
Lần dở những trang thơ. Những trang thơ mong manh như những thân xác E-và trong cơn lốc thời gian âm ỉ. Trang Thả Lá Đề Thơ bên cạnh một tác phẩm nhiếp ảnh tuyệt vời của Nhiếp ảnh gia Hồng Nga ( lại một nữ nghệ sĩ nữa – tôi tự hỏi ! ). Nhìn giai nhân trong ảnh- rõ ràng trong ngọc trắng ngà / giữa trời lồ lộ một toà thiên nhiên ( Nguyễn Du ) - tôi liên tưởng ngay đến cái Hữu Hạn của con người và cái Vô Hạn của Nghệ Thuật. Rồi đây, một trăm năm sau, một ngàn năm sau, hình hài này, sáng tạo tuyệt vời của Thượng Đế này, sẽ trở thành cát bụi, sẽ là hư không. Nhưng bức ảnh nghệ thuật sẽ bất diệt, sẽ còn lại mãi mãi, sẽ tươi trẻ mãi mãi như Tuổi Xuân ( tên bức ảnh trong tập thơ ) , như vào giây phút diệu kỳ trang tuyệt thế giai nhân từ từ trút bỏ xiêm y , từ từ ngồi xuống cho người nghệ sĩ ghi lại hình ảnh sẽ được lưu giữ cho nhiều thế hệ mai sau – miễn là Lịch sử không đẻ ra thêm những Tần Thủy Hoàng nào nữa .
Tôi đọc trang Thả Lá Đề Thơ.”. . . Từ đó . . .trái khôn ngoan đã biến thành trái dại khờ. Bao kẻ dại khờ đã yêu nhau trên trái đất này từ ấy đến nay ? Tôi cũng là một trong những kẻ dại khờ đó, tình nguyện dại khờ . . . vui vẻ dại khờ . . . “
(Thả lá đề thơ – Ngô Tịnh Yên )
Thế ra, tôi đã nghi oan cho cho những nữ nghệ sĩ khả ái của chúng ta. Tôi tưởng các vị đùa cợt chúng tôi – một lũ nhân loại đàn ông dại khờ – Thế ra, tác giả NTY cũng là một trong những kẻ dại khờ đó. Tình nguyện dại khờ. Vui vẻ dại khờ.
Tôi tưởng … chỉ có chúng tôi – lũ đàn ông tội nghiệp – mới là những kẻ dại khờ.
Thế ra, các dòng sông, mọi lách nguồn, đều chảy về một chỗ trũng. Thế ra, những tư tưởng . . . lớn cũng đều gặp nhau ở một chỗ rất bé nhỏ nào đó ( ngoài trần gian ngắn ngủi này ).
4.
Đôi ta buộc đất vào trời
Cho hai người hóa một người mà thôi
(Ngô Tịnh Yên )
Khởi thuỷ là Thượng Đế. Và sau đó là con người với hình ảnh Thượng Đế. Khởi Thuỷ là Vườn Địa Đàng với hai con người khôn ngoan. Và sau đó là Trần gian với những mơ ước về vườn địa đàng và lũ con cháu dại khờ. Kể từ bao giờ, mà những thân xác đầm đìa mồ hôi hạnh phúc kia hiểu ra được rằng :
Đôi ta buộc đất vào trời
Cho hai người hóa một người mà thôi
( Trăng Mật. Ngô Tịnh yên )
Phải chăng từ giây phút :
Một trang sách mở kinh tình
Đôi vòng tay mở tử sinh khôn lường
Phút giây hội ngộ vô thường
Nghìn năm bốc cháy trên hương phấn người
( Kama Sutra. Ngô Tịnh Yên )
Cho hai người hóa một người mà thôi. Hay nói như Trịnh Công Sơn (?) . Tim tôi về trọ giữa buồng ngực em.
Ngôn ngữ thăng hoa hay tình yêu thăng hoa ? hay thân xác thăng hoa ? Dường như – với tôi – Ngô Tịnh Yên đã cho cả ba thăng hoa cùng một lúc. Với nhân loại , sự thăng hoa của thân xác và tình yêu trong cùng một sát na là chuyện không có gì mới lạ. Chỉ có điều người ta ngại nói ra. Qua ngôn ngữ, thi sĩ đã xoá nhòa ranh giới của trời và đất bằng cái phất tay rất phù thủy ( với môi mềm lâm râm khấn thần chú: Om Mani Padme Hum – án ma ni bát di hồng - ).( Theo Giáo Sư Tạ Chí Đại Trường trong “ Sex và Triều đại “– Tạp chí Văn Học số 125 và các số kế tiếp – thì án ma ni bát di hồng / Om Mani Padme Hum có nghĩa là thanh tịnh: thân, khẩu,ý nhưng nguyên gốc lại mang hình thức tính dục là “ châu báu nằm trong hoa sen “ , một cách nói thanh tao hơn của câu : “ cái lingam nằm trong cái yoni”. ).
Lại nhớ đến năm xưa thuở 17 tuổi. Tôi say mê truyện ngắn “ Tiếng hát lên trời “ của Hoàng Ngọc Tuấn viết về một nữ ca sĩ lừng danh đương thời. Trong truyện, nhân vật xưng tôi ( hay tác giả ) bày tỏ ước mơ được là gói thuốc Salem nằm trong túi aó của nàng ca sĩ. Cái ước mơ thật đáng yêu làm sao. Gần 40 năm từ ngày ấy, nay nàng ca sĩ chắc chắn không còn trẻ nữa. Khuôn ngực chắc chắn không còn đầy như ngày xưa nữa. Nhưng, nếu tôi được phép viết lại câu chuyện, tôi cũng sẽ giữ nguyên ước mơ được là gói thuốc nằm mãi mãi trên ngực áo nàng. Vì dẫu cho “ thời gian nhuộm thịt da ngời” vẫn “ còn đôi xúc giác gọi thời đam mê “ ( NTY).
Tình yêu là một sự kết hợp ( và dâng hiến ) trọn vẹn. Cả thể xác lẫn tâm hồn. Đã đành là hai trái tim rung động. Nhưng cả hai thể xác cũng run rẩy – thật bất hạnh cho những ai không thốt lên được lời run rẩy – Khi “ phút yêu mê rờn rợn khắp châu thân “, khi cơn hồng thuỷ dìm ngập cả vũ trụ, cũng là lúc dòng nham thạch phun lên từ ngọn núi lửa đốt cháy hết nhân loại để muôn vật trở về lại thuở hồng hoang. Đó là lúc :
Cánh sát na chạm địa đàng
Đôi ta trôi giữa hỗn mang đất trời
( Uyên ương. Ngô Tịnh yên )
Đó là lúc đất trời giao hoan để sinh thành ra vũ trụ với hạt giống tình yêu nẩy mầm từ chỗ sâu kín nhất của tâm hồn và chỗ sâu kín nhất của thể xác:
Kiếp xưa của đất là trời
Trời không có đất nghe trời buồn thiu
Nên đôi ta phải biết yêu
Cho hai thân thể sớm chiều tương tư
(Hài Hoà. Ngô Tịnh Yên )
Từ “ cho hai người hóa một người mà thôi “ đến “ cho hai thân thể sớm chiều tương tư “ nếu tính theo thời-gian-không-trọng-lượng thì chỉ là khoảnh khắc của một sát-na – cái khoảnh khắc không thể đo lường được bằng bất cứ dụng cụ hi-tech nào của đương đại. Nhưng so chiều dài của một nhân loại có sinh có diệt, có hợp có tan, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, hợp rồi tan, tan rồi hợp , thì – quả thật – tiến trình từ “hoá một người mà thôi” cho đến “ hai thân thể sớm chiều tương tư “ là một chiều dài có thể xuyên suốt nền văn minh hỗn mang cho đến điện tử rồi từ điện tử lại trở về hỗn mang. Về không gian, đó là một tiến trình vừa vượt khỏi những giới hạn quy ước về đất và trời, về thiên đàng và địa giới, vừa thu gọn trọn vẹn trong một khoảng vừa đủ cho “ chân run? Mắt liếc? Tay ghì? Môi trao?”:
Thịt da không ở nhân gian
Tay bên Thiên Trúc chân sang Niết bàn
Cánh sát na chạm địa đàng
Đôi ta trôi giữa hỗn mang đất trời
( Uyên ương. Ngô Tịnh Yên )
Người nghệ sĩ - qua nghệ thuật – đã nâng cái trần tục (?) lên thành cái thoát tục, nâng cái hữu hạn trần gian lên thành cái vô hạn vũ trụ, nâng cái ngắn ngủi phút giây lên thành cái thiên thu vạn kiếp. . .
Thời gian nhuộm nẻo đi về
Mà sao trực giác chẳng hề đổi thay
Người yêu có mái tóc mây
Trói thời gian lại bằng dây ái tình
( Giác Quan thứ 7. Ngô Tịnh Yên )
Lại giật mình soi bóng mình trong gương. Những món tóc bạc đã bắt đầu xuất hiện. Hai bên đuôi con mắt loáng thoáng những dấu chân chim. Một cảm tưởng mơ hồ rằng sinh lực của mình cũng đã hao mòn đi theo năm tháng. Vụt qua trong trí nhớ một câu chuyện buồn đọc đâu đó.Câu chuyện về đôi vợ chồng gìa. Để kỷ niệm 50 năm ngày cưới, thay vì tổ chức tiệc tùng mời khách khứa đến tham dự, thì ông bà quyết định ngồi bên nhau ôn lại quãng đời chung từ những ngày họ còn lén cha lén mẹ hẹn hò.
Hình ảnh vợ chồng gìa – hai mái đầu bạc trắng – trong buổi chiều vàng lặng lẽ giữa khu vườn đầy hoa vàng lặng lẽ, rất lặng lẽ ngồi bên nhau ôn lại những năm tháng cũ, từ những ngày xanh cho đến những ngày vàng. Chợt một con gà trống từ đâu xao xác chạy đến nhảy lên lưng con gà mái. Rồi những âm thanh gù gù. Cụ bà đưa mắt lén nhìn cụ ông. Cũng vừa lúc bắt gặp cụ ông cũng đang đưa mắt nhìn mình. Hai bàn tay nhăn nheo hiểu ý xiết chặt cùng với hai tiếng thở dài . . . não nuột.
5.
Lục Bát như cô gái vừa đẹp, vừa duyên dáng mặn mà nhưng cũng khá là đỏng đảnh. Lần đầu tiên đến với thơ, người ta tưởng chừng như dễ dàng chinh phục được nàng Lục Bát. Nhưng không phải vậy. Càng lưu luyến với thơ, càng thấy rằng khó mà đến gần được cái hồn của Lục Bát . Cái mà Thi sĩ Luân Hoán gọi là “ uyên nguyên căn bản “. Từ xưa tới nay có bao nhiêu người làm thơ, nhưng chạm tay được vào Lục Bát – theo tôi – không hẳn là có nhiều. Với tôi, Ngô Tịnh Yên chỉ cần kiễng chân lên một chút nữa là có thể với tới được cái hồn Lục Bát mà nhiều người làm thơ thèm khát. Trong tập 20 bài này, có những bài mà duyên nữ tính bộc lộ rất rõ nét, từ vần điệu đến câu chữ. Bằng vào cảm quan của một kẻ thuộc . . . nòi tình, tôi nhận ra ngay cái nét nữ kia.
Thí dụ như bài Hôn:
Yêu nhau yêu cái răng khôn
Lỡ mai răng lệch biết hôn chỗ nào
Yêu cái răng khểnh thấp cao
Nếu như răng lệch chỗ nào mình hôn
Đã yêu đâu sợ mất còn . . .
Răng long đầu bạc vẫn hôn như thường
( Hôn. Ngô Tịnh Yên )
Có những bài lại nhẹ nhàng mộc mạc ý nhị như Ca dao :
Chỉ tại con mắt lá dăm
Nên tằm mới chịu ăn nằm với dâu
Còn tôi có tại gì đâu
Cũng đòi bắt chước theo dâu với tằm
. . . . . . . . .
chỉ tại cái nết không chừa
thế nên trúc cứ lẳng lơ với mành
còn tôi gỉa bộ vô tình
cũng đòi bắt chước trúc mành lăng nhăng
. . . . . . . . .
ghét tôi cũng chẳng ăn nhằm
trăm dâu cứ đổ đầu tằm là xong
(Trăm dâu cứ đổ đầu tằm. Ngô Tịnh Yên )
Làm nhớ đến câu Ca Dao đọc lên nghe như da thịt có gai : Kim chích vô thịt thì đau, thịt chích vô thịt nhớ nhau trọn đời.
Một tập thơ có 20 bài, mà được đến như thế, tưởng cũng là . . . hơi nhiều.
6.
Anh bạn thân họ Đặng gởi cho tôi tập thơ Ngô Tịnh Yên với hàng chữ trên trang đầu : “ Gởi T.Vấn đọc chơi để biết rằng mình cũng đang Trăng với Mật”. Hôm sau, tôi gởi lại cho anh vài hàng trong bức điện thư, đại ý tập thơ đã gây cho tôi một ấn tượng khá mạnh mẽ. Tôi cũng đùa với anh đôi câu về Trăng với chả Mật. Chúng tôi đều ” cùng một lứa bên trời lận đận “, vừa vượt qua ngưỡng cửa ngũ thập tri thiên mệnh được vài năm. Đam mê còn nguyên vẹn đó , nhưng “ con đom đóm chỉ sáng ngàn đêm vui “ (thơ NTY ). Tôi cũng đưa tập thơ cho nàng và bảo em hãy đọc đi để nghĩ về Trăng với Mật của chúng mình.
Ôi cuộc sống hàng ngày với những thói quen đều đặn và . . . đều đặn. Đôi lúc, những thói quen đều đặn ấy đã che lấp đi cái “ chất sống “ đích thực của đời sống. Cuối cùng, dường như chúng ta chỉ sống với những thói quen, dù tẻ nhạt. Chúng ta ít khi sống đời sống đích thực mà lẽ ra chúng ta không nên để vuột khỏi tay, dù một giây, trong cuộc nhân sinh ngắn ngủi này.
Chỉ cho đến lúc, những thói quen hàng ngày ấy bị phá vỡ, thì e rằng có quá . . . muộn chăng. Tôi muốn nói đến cả những thói quen tình cảm và . . . ân ái vợ chồng.
Lục Bát Khỏa Thân, trong một chừng mực nào đó, đã gợi cho tôi nhớ rằng, mình nên chú ý hơn nữa tới những gì đằng sau thói quen đều đặn ấy.
. . . Hình như, với Lục Bát Khỏa Thân, các tác giả – thi sĩ, hoạ sĩ, ảnh sĩ – đã tiếp tay làm cho Trăng của chúng tôi sáng hơn, mật của chúng tôi ngọt hơn, dù không cần phải có món văn chương thi-hoạ-hình xa xỉ này , trăng mật của chúng tôi vẫn cứ là trăng mật. Dù biết sẽ đến một ngày “ thời gian nhuộm nẻo đi về “ ( NTY ), nhưng biết đâu, nếu chúng tôi cứ siêng năng niệm câu thần chú của thi-sĩ-phù-thủy” trói thời gian lại bằng dây ái tình “ thì . . .
Biết đâu . . . ▄
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­
T. Vấn
Ghi chú:
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­
* “Mụ Phù Thủy và đôi môi mềm”: tên một bài thơ đăng trong Đặc san Xuân Canh Tuất trường Petrus Ký NK 69-70.
** Trăng Mật. thơ Ngô Tịnh Yên. N & M phát hành 2002. California-USA. Không đề giá bán.
*** Một cách rất tình cờ, tôi liên lạc được với mấy người bạn P.Ký năm xưa, nay ở rải rác khắp nơi trên thế giới. Kẻ ở Canada, người Úc Đại Lợi, kẻ ở Pháp, rồi Na-Uy, và phần lớn còn lại ở Mỹ. Có anh lại còn “ngờ nghệch “ làm thơ … tình nữa. Và, tin hay không tin, khối anh P.Ký đã bị câu sấm “chốn khuê phòng Petrus Ký bắt chí Gia Long” vận vào người, khiến yêu ai thì cứ yêu nhưng phải lấy Gia Long làm vợ (trong đó có kẻ viết bài này ). T.Vấn
Nguồn : Cafe Da Mau
TB : Vô tình đọc và vô tình thấy hay ...