Over and over I whisper your name. Over and over I kiss you again
TT&NT

26.7.25

just be a dream



mấy tháng trước đọc Con gái của thời gian, có lúc tưởng như mình đang đọc tiểu thuyết lịch sử, nước Anh thế kỷ 15 thời Richard III; còn hôm nay đọc Tôi là Coriander - một quyển dòng young adult, bối cảnh nước Anh Cộng hòa thế kỷ 17, thời kỳ Cromwel sau khi phe Bảo hoàng bị đánh bại [Bảo hoàng và Thanh giáo] trong cuộc Nội chiến và vua Charles I bị xử tử đầu năm 1649 [là đọc truyện nên tôi mới biết, chứ tôi sử sách là mù tịt, sử ta tôi cũng mù luôn]

truyện đưa người đọc về thế kỷ 17 Anh và còn cho tiến vào một thế giới khác, như cổ tích [motif sau khi hoàng hậu mất, vua cha đã để nàng công chúa con mình rơi vào tay mụ dì ghẻ phù thủy etc.], nơi có phép thuật, các phương thuốc, lời nguyền, cái bóng hội tụ ánh sáng vĩnh hằng, phép màu... những điều không thuộc về thế giới này - nơi của cây Thập giá và vị Chúa bị đóng đinh câu rút. Nó làm tôi nghĩ đến A midsummer night's dream, Shakespeare dùng "past the wit of man" và rất nhiều đoạn vào khúc gãy của thời gian giữa 2 thế giới, Coriander làm tôi nghĩ đến một cảnh trong Giấc mộng đêm hè, đại để, khi những người yêu nhau tỉnh giấc, họ cho rằng tất tật những gì đã xảy ra chỉ là một giấc mộng, chúng không có thực; tất nhiên câu chuyện Tôi là Coriander thì không phải những đôi tình nhân nghĩ thế, mà nỗi nhớ mong người mình thương yêu, gia đình êm ấm bỗng chốc tan biến... khi mất dần niềm tin, người thân như tự mình thổi tắt từng ngọn nến hy vọng, sự tuyệt vọng bủa vây thì người ta cũng rơi vào mộng, mộng dữ ngay cả khi đang thức [nếu nghĩ được, khi đang ở thế giới khác, rằng, thế giới mình vừa bỏ lại là just be a dream, cũng có chút an lòng giả tạm, cho đến lúc từ giấc mơ trở về thế giới mộng dữ, trở về một lần nữa ác (mộng) hơn hay đang ở trong nó thì ác hơn, ai biết]

dù câu chuyện có thế nào, tất nhiên rồi, đến cuối cùng chuyện sẽ đi con đường của nó, dòng young adult mà. Mọi thứ sẽ tốt đẹp cả thôi :p, thế giới này người ta cũng thường nhẩm thần chú như thế để tiếp tục sống, không chỉ trong các câu chuyện young adult đâu :p

if we shadows have offended
think but this, and all is mended
that you have but slumber’d here
while these visions did appear
and this weak and idle theme
no more yielding but a dream
[Puck, act V, scene 1, A midsummer night's dream - Shakespeare]

có thực không



thế giới những câu chuyện loài vật thường làm cho đứa trẻ băn khoăn và chúng mang nó đi hỏi ai đó, mà chúng cho rằng có thể cho chúng câu trả lời, rằng: những điều kể trong truyện có thật không, ý là thực sự đã xảy ra như thế í, những con chim con chuột con lợn con chó con mèo con voi con khỉ vân vân và vân vân, chúng có thể nói khóc, có thể nghịch đùa đi học như bọn con [trẻ con] í 


cuộc đời ở đây chỉ là một dạng cuộc đời, vẫn luôn có những cuộc đời trong thế giới của các câu chuyện, trong trang sách, trong những quyển sách đã được đọc được hiểu, thậm chí hiểu sai và, cả những quyển sách còn phong kín; dẫu đó cũng chỉ là một dạng cuộc đời vì có thế nào, trong tâm tưởng mỗi người, vẫn luôn có những cuộc đời, cả khi thức và khi mộng mơ. Những khả thể vẫn luôn ở đó, không cánh cửa nào đóng im ỉm trước mỗi người đọc

25.7.25

famous



Người nổi tiếng và tôi là tiểu thuyết dòng young adult, tác giả Todd Strasser; tôi chưa đọc tác giả này bao giờ, mua nó vì người dịch Nhã Thuyên. Câu chuyện được viết xen vào nhau bởi 4 nhân vật đứng các chương: Jamie thợ săn ảnh, một fan hâm mộ, một người nổi tiếng và một đại diện pháp luật; lấy cô bé Jamie lớp 10 làm nhân vật trung tâm, nổi tiếng nhờ những bức ảnh cô bé chụp người nổi tiếng và cô bắt đầu sự nghiệp của một paparazzi song song với việc học, các mối quan hệ bạn bè, sở thích... của một cô bé trung học đúng tuổi của mình

vì bắt đầu với sự nghiệp săn ảnh người nổi tiếng nên dần dà cô bé cũng bị cuốn vào thế giới người nổi tiếng và danh vọng, đặc biệt khi ở tuổi nữ sinh trung học, cô sở hữu những bức ảnh nhạy cảm của một ngôi sao tuổi teen đang lên. Lúc này, nó đánh vào đạo đức và những lựa chọn cá nhân của cô bé trên con đường chạy theo dục vọng được công nhận, được nổi tiếng

câu chuyện không lạ khi hỏi một đứa trẻ: chúng muốn làm gì khi lớn lên, lớn lên muốn làm gì; càng cộng thêm một tuổi qua mỗi năm tiểu học, chúng sẽ nói với ta chúng muốn giàu, thay vì những năm mẫu giáo chúng nói chúng muốn lái máy xúc, chú lính cứu hỏa, siêu nhân giải cứu thế giới, cô bảo mẫu chăm sóc em bé, cô giáo, y bác sĩ cứu người... Ở thời chúng ta, hiện nay, ngay thời điểm này, bọn trẻ con của loài người cho câu trả lời chiếm tỉ lệ cao lừng lững, chúng muốn làm người giàu và nổi tiếng, hay "cháu muốn làm tóp tóp". Các Đấng trên cao ơi, lũ trẻ của loài người cho rằng trên đời này có nghề nghiệp tên giàu và nổi tiếng

hôm qua trong lúc tôi nói chuyện với mấy người tuổi tôi, đứa trẻ ngồi bên nghe được chuyện về một cậu bạn tôi vừa làm công việc cậu ấy được học hành đào tạo, vừa chơi nhạc lập band theo đuổi sở thích; đứa trẻ 12 tuổi ngồi hỏi tôi: chú ấy có giàu không ạ, có nổi tiếng không, có được lên mạng không, được bao nhiêu lai, nhiều người theo dõi không etc. Thời chúng ta những nghề: không nghề [tức, đống nghề thì... trết]

24.7.25

Bob - a street cat



tự truyện của James Bowen [được chấp bút] - một nhạc công sa cơ lỡ vận đang phục hồi sau cai nghiện với người bạn là một chú mèo hoang, được xem như duyên số [James Bowen được nuôi dưỡng như người Thiên Chúa, nhưng rất thích giáo lý nhà Phật (xưa M. bạn tôi cũng vậy, anh luôn thấy giáo lý nhà Phật sâu rộng và đầy đủ)], mèo Bob. Gặp nhau, đôi tâm hồn được nghỉ ngơi, người và mèo gặp nhau như gặp được cái xuồng cứu mình trong cảnh lênh đênh lạc trôi vô vọng giữa dòng nước lớn

phần lớn người ta nghiện bởi cô đơn. Tôi luôn khâm phục những người có thể cai sống heroin, không ai có thể biết hay hiểu họ đã trải qua những gì. Ở các nước phương Tây, quá trình cai nghiện heroin sẽ được chuyển từ heroin sang methadone, người cai nghiện sẽ phải kéo rất dài quá trình uống methadone rồi giảm liều cho đến ngày được các bác sĩ, chuyên gia cho thử ngắt hẳn methadone, chỉ 48 tiếng không methadone đã rất khủng khiếp rồi, rồi chuyển sang subutex, đến được bước này thì rất gần với việc mình có thể được xem là người bình thường, không nghiện không phụ thuộc thuốc gì [chắc khổ sở như vậy nên với người nước ngoài, ngồi vạ vật với tờ bìa xin tiền vì tôi nghiện, là bình thường, cảm thông được; tôi thương người nghiện, thương theo nghĩa làm người quá khổ, nếu không may nghiện thì cũng vì quá cô đơn, muốn chơi gì đó cho quên thực tại và, cai nghiện, tôi nghĩ, quá cả thử thách thăng tiên nếu có thể cai được, nên tôi thương, chuyện thi thoảng cho tiền người nghiện tôi cũng không tiếc bao giờ; còn những người chơi cocain, một số nước ở sân bay, khi chó nghiệp vụ ngửi ra mùi, nếu khám ra lượng nhỏ và được giải trình là trữ để sử dụng cá nhân thì cũng được cho qua, hình như Úc là thế]. Mô hình uống thuốc để cai nghiện này, gần nhà tôi đã có chú thành công; sau 30 năm nghiện hút chích đủ cả, uống thuốc cai nghiện ròng rã gần 3 năm, thuốc lấy ở trung tâm y tế quận, cuối cùng đã trở về làm người; động lực lớn nhất với chú ấy là các con đã lớn, không thể để chúng nhìn bố mình như "thằng nghiện" mãi được. James Bowen trong tự truyện Bob chú mèo đường phố từ khi có Bob, cũng cố gắng nắm lấy cơ hội của mình, cơ hội được trở về làm con người đúng nghĩa, đến cả việc đi đến trung tâm nhận thuốc phục hồi sau cai heroin, anh ta cũng đi 1 mình, không muốn mèo Bob biết đến một quá khứ lãng phí cuộc đời đã qua

vẫn một câu cũ, thánh thần cũng có quá khứ, tội đồ vẫn có tương lai. Lựa chọn nào cũng có kết quả, hệ quả cùng tất tật liên đới của nó đi kèm. Chọn gì cũng được, đi đủ xa thì đều đến được nơi nào đấy như con mèo trong Alice phán; vẫn thần chú cũ: nói được làm được, làm được chịu được, chịu được dọn được 😛


23.7.25

Anne Fine




đây là tác giả viết truyện thiếu nhi hiện đại tôi thích nhất. Ảnh 1 là thứ tự xuất bản nguyên tác. Ảnh 2 là thứ tự đọc của tôi, mở màn là 2011 với Những em bé bột và Trò đùa của Tulip. Đến giờ với tôi ấn tượng vẫn là Trò đùa của Tulip [The Tulip touch], ngay sau đó là Những em bé bột; 4 quyển của NN tôi đọc trong yêu thích chung cuộc và tôi vẫn sẽ đọc Anne Fine nếu tiện có sách, nhưng bảo ấn tượng như Tulip hay Em bé bột thì không. Trò đùa của Tulip cũng là quyển có màu sắc khác hẳn trong sự nghiệp của Anne Fine; câu chuyện được Anne Fine viết trong dòng sự kiện về một vụ án có thật, tôi nhớ mang máng thế, 2 đứa trẻ 10 tuổi đã cùng nhau khiến 1 đứa bé 2 tuổi tử vong; tất nhiên câu chuyện Tulip không kể về vụ án ấy, nhưng sự kiện này tiếp tục nỗi suy tư âu lo mang tính kinh điển: bản chất là xấu xa tội lỗi hay do nuôi dưỡng môi trường; điều khiến Anne Fine chọn cái kết lửng cho Trò đùa của Tulip là trong sự kiện có thật kia, cách một bộ phận người lớn phản ứng như những người vô sự không liên quan, gần như là đòi trừng trị 2 đứa trẻ 10 tuổi theo lối, nhốt chúng lại và ném chìa khoá đi

năm ngoái trong một đợt thanh lý sách hộ bạn, bạn tôi không có đủ Anne Fine vì cô ấy mua theo tôi, chứ không đọc nên không cập nhật sách Anne Fine đủ; trong số người vào hỏi mua Anne Fine, có hỏi tôi có quyển abc xyz của Anne Fine không, tôi nói có nhưng khả năng cao sẽ không pass, khi nào gặp tôi sẽ vợt hộ. Trong lúc nói chuyện qua lại về Anne Fine, chúng tôi cùng nhau nói về Trò đùa của Tulip, ý nghĩ của chúng tôi về cái ác tồn tại trong mỗi đứa trẻ [nên tôi đã có ý nghĩ, nếu gặp quyển bạn ấy thiếu, tôi sẽ vợt và tặng luôn vì đây là người duy nhất đọc Anne Fine mà tôi biết tại thời điểm đó]

nhờ đọc Anne Fine tôi mới biết ngoài Carnegie dành riêng cho văn học thiếu nhi-thanh thiếu niên thì còn có Whitbread hạng mục cho văn học thiếu nhi [quyển Bí ẩn về con chó lúc nửa đêm của Mark Haddon giành giải này]. Vừa rồi tôi băn khoăn tại sao những năm gần đây tôi không đọc trúng quyển văn học thiếu nhi-thanh thiếu niên nào giải này, thì mới hay biết Whitbread đã đổi nhà tài trợ, thành giải Costa [Costa hình như là công ty con hay một nhánh của Whitbread thì phải] và giải này cũng ngừng hoạt động từ 2022


22.7.25

Tim Bowler - Mark Haddon



2 tác giả Anh viết cho thiếu nhi - thanh thiếu niên; Tim Bowler viết đều tay hơn còn Mark Haddon quyển Bí ẩn về con chó lúc nửa đêm, 16-17 năm trước khi đọc nó lần đầu, tôi quá thích nên đã ngồi gõ lại nó để lưu vào blog, nhưng đến quyển Bùm thì tôi hạ nhiệt hẳn; cũng không rõ trong khoảng 5-7 năm gần đây, 2 tác giả này có quyển nào được dịch thêm chưa, nhất là Tim Bowler có vẻ ít người đọc, từ 14 năm trước ngay khi BV làm đầu đầu tiên đã như rơi vào thinh lặng rồi

hôm trước có đứa tiểu iêu bảo nó không hợp văn học Anh nên chưa để ý Edith Wharton vội; tú bảo tú cứ đọc theo cách các quyển sách chỉ dẫn tú đi tiếp nhưng tú luôn ưu ái văn học Anh, chất phớt ăng-lê, dù tú đọc nhiều Pháp, Đức :p


Berlie Doherty

 


văn học thiếu nhi - thanh thiếu niên, tôi đọc nhiều Newbery, nhưng thích Carnegie hơn. Berlie Doherty đến với tôi lần đầu khoảng 15-16 năm trước với Dear Nobody [ngôn ngữ dịch miền Nam], một câu chuyện điển hình lứa tuổi thanh thiếu niên, không lạ lẫm chút nào, cuối cấp - trước thềm Đại học, Cao đẳng bỗng nhiên có bầu, hai đứa trẻ tồng ngồng mới lớn tính thế nào và khi nhìn vào nó, lịch sử mỗi gia đình, những câu chuyện tình yêu tuổi trẻ, các cuộc hôn nhân thế hệ trước còn lành lặn hay đã tan tành đều lần lượt được nhìn lại với con mắt tỉnh táo khách quan đúng nghĩa hơn; kết chuyện không trọn vẹn như nhiều kịch bản ngoài đời chúng ta đã biết, trọn vẹn theo nghĩa dù là quyết định của hai đứa trẻ hay của những người lớn thì cũng đều là những quyết định đã tính nhiều bước, kết chung cuộc; nhưng kết chuyện của Dear Nobody là một cách giải quyết cho mỗi cá nhân được độc lập là chính mình, cho dù vì bất cứ ai thì trên hết hãy cho mình được là chính mình đã

1-2 năm sau Dear Nobody, Hoàng tử bất đắc dĩ và Mặc cả ở xứ tiên, đến với tôi. Màu sắc của chúng là màu sắc thần tiên kỳ ảo, du dương trí tưởng tượng bồng bềnh như mộng một giấc đẹp ngay khi ta đang thức

ps. một nhân vật thày giáo dạy Văn [2 đứa trẻ nhân vật chính, 1 đứa sẽ cao đẳng nhạc, 1 đứa sẽ đại học văn] trong Dear Nobody có nói, đại ý: ngôn ngữ là sức mạnh, văn chương là tình yêu, thi ca là cái nuôi dưỡng tâm hồn. Tự nhiên tôi thấy người lười như tôi sao lại "giàu có" như thế này được, tôi tiếp tục nạp dinh dưỡng bằng một bài thơ của Yeats 😛

19.7.25

Kate DiCamillo

 





lần đầu tiên tôi đọc Kate DiCamillo là 1/6 [tôi có thói quen mua cho mình quà 1/6, thường là sách, ngày này tôi hay có chút mong ngóng được cho quà, tính khí trẻ con thế thì biết phải làm sao, thi thoảng tôi cũng vòi ai đó mua sách như món quà 1/6 cho tôi, nhưng tôi chưa từng vòi bất cứ gì từ bố mẹ mình] cách đây 15 năm, đó là Edward Tulane. Vì quá thích thỏ sứ, trong cùng năm 2010 ấy, tôi tiếp tục với Despereaux và Winn-Dixie. Khi đã đọc 3 quyển của DiCamillo rồi, tôi mới nhìn "DiCamillo" mà mình viết, tự hỏi cái họ này thì liên quan gì đến nước Mỹ chứ, chắc phải mạn nào đó Ý Tây Ban Nha etc.; hoá ra Kate DiCamillo là người gốc Ý. Thứ tự đọc của tôi chính vì thế như ảnh 1; sau đó, NN đã nhanh chóng xuất bản các tác phẩm mới của DiCamillo, rất nhanh chóng và tôi lần lượt đọc quyển thứ 4 năm 2011, quyển thứ 5 năm 2016 và quyển gần nhất là 2025

về sau, tôi mới biết thứ tự viết của DiCamillo như ảnh 2. Kate là người Mỹ gốc Ý, lớn lên ở Florida, chuyển đến sống ở Minnesota những năm hai mươi tuổi; chính nỗi nhớ nhà và mùa đông buốt giá ở Minnesota đã thôi thúc Kate viết Bởi vì Winn-Dixie, đó chính là tác phẩm đầu tay, không trách nó hồi cố, màu sắc cũng khác 2 quyển Despereaux và Edward Tulane ngay sau. Hôm qua đọc Raymie - Nữ hiệp mộng mơ, câu chuyện bối cảnh 1975 và chi tiết cho biết cô bé Raymie 10 tuổi, tôi liền nhẩm nhẩm 1965, vậy là tính cách, sở thích, tâm trạng... của các cô bé sinh năm 1965 vào thời điểm năm 1975 ở Florida sao [nơi Kate lớn lên], rồi tôi nghĩ có lẽ đang là một cách viết lại, viết tiếp và phóng tác chính mình, chỉnh đốn các ký ức, nhà văn đang thực hiện công việc ấy cho, trong và trên chính chất liệu là mình. Kate DiCamillo sinh năm 1964

sáng nay tôi có một đoạn voice chat với bạn nói về Ryu Murakami tác giả tôi đã gả đi từ 2 năm trước, bạn hỏi tôi còn sách của Ryu không vì bạn chỉ có quyển gần nhất ở Vn của ông í, lại là quyển tôi không có không đọc và không có ý định mua. Tôi nghĩ về những nhà văn tôi đã đọc, đã gả đi tủ sách khác; một cảm giác khoan khoái dễ chịu, không tiếc nuối. Tình cảm đã có giữa các bên, dù có ở đâu, lúc nào thì đã có những ngày, những trải nghiệm thuộc về nhau; tính sở hữu gay gắt không còn tồn tại nữa [bảo không lưu luyến là nói dối lòng, điêu dân], ai cũng cần đi tiếp và tiếp tục những trải nghiệm vì chỉ cần ai đó sẽ đến, ai đó đến, tiến tới chủ động thì đều là người xứng đáng, như câu chuyện thỏ sứ Edward Tulane

ps. những sách trong khoảng đọc 3-4 năm gần đây, còn rất ít quyển tôi ký vào và ghi ngày tháng đọc xong; còn thò bút viết vì còn nghĩ "của mình, mãi là của mình" nhưng mà làm gì có thứ gì mãi là của mình; ký ức kỉ niệm [y dài i ngắn, thói quen] là thứ sở hữu duy nhất, chẳng phải rồi cũng bồng bềnh một phần... bình thản thôi, bà già


nữ hiệp mộng mơ




lâu lắm rồi, tôi xem the voice Mỹ hay một chương trình cuộc thi hát nào đó ở Mỹ [không phải Anh dù tôi thích xem the voice Anh, Đức hơn, tôi nhớ rõ Mỹ vì người Anh nói khó nghe rõ lắm, còn Đức thì tôi chịu rồi], có một cô gái trả lời phỏng vấn lý do cô ấy đến với cuộc thi, đại ý: cô ấy muốn xuất hiện trên phương tiện đại chúng, càng vào được sâu các vòng trong thì càng tốt vì cô ấy mong rằng ở nơi nào đó bố cô ấy nhận ra con gái của mình đã lớn khôn và tài giỏi thế nào, ông đã bỏ đi khi cô 17 tuổi và gần 10 năm rồi cô chưa được nhìn thấy ông, chỉ muốn nói, nếu lúc này ông có vô tình nhìn thấy con gái, rằng, con rất nhớ bố...


cô bé Raymie trong truyện cũng như vậy, muốn tham gia cuộc thi, mong chiến thắng, để ở đâu đó, người bố bỏ đi cùng người phụ nữ khác có thể nhìn thấy cô bé và trở về. Một ý nghĩ và hành động can đảm, thừa nhận mình cần một ai đó, ngay cả khi người ta không đặt mình ở vị trí quan trọng. Không ngạc nhiên khi nhân vật 10 tuổi này đã luôn hành động như một nữ hiệp. Một nữ hiệp mộng mơ - Raymie Nightingale [tôi đổi họ cho nhân vật đấy :), Nightingale là cái họ gắn với lịch sử điều dưỡng, cũng là một nữ hiệp]

14.7.25

giọng nhỏ thì thầm



Những kẻ tuyệt vọng của Minh Tran Huy [Trần Huy Ngọc Minh] - nữ tác giả Pháp gốc Việt có câu chuyện làm người đọc nghĩ nhiều đến Annie Ernaux [ngay cả chi tiết phá thai ở Những kẻ tuyệt vọng, cũng khiến nghĩ đến Ernaux; ngoài ra, Jane Austen, Emily Bronte, Edith Wharton...], lưu vong giai cấp; ở đây, nổi bật hơn, là lưu vong văn hoá. Giọng của Ernaux thì luôn trung tính, gọn, có thể cho là bàng quan, mỗi khi nói về xuất thân gốc gác của mình, còn Minh Tran Huy thì cầu kỳ, ẩn dụ, chất liệu cổ tích dân gian Việt Nam rất hay được sử dụng như một quy chiếu văn chương [một trong số đó là sự tích trầu cau, khi nghĩ lại sự tích này, tôi nghĩ đến 3 thứ trầu - cau - vôi nghiền nát cùng nhau tạo thành màu đỏ bã trầu, như máu, phải nghiền nát cùng nhau mới tạo ra thứ như máu, chung một huyết mạch; thật dã man, nghiền nát cùng nhau]

câu chuyện mở màn tưởng như một truyện trinh thám với các chương được kể xen kẽ nhau 2 giọng: Lise - nhân vật chính và Người kia - giọng khách quan, mà đến nửa sau người đọc mới đoán ra Người kia là giọng ai; rồi nhận ra nó là một truyện tâm lý tình cảm, tâm lý xã hội có một mở màn khoác vỏ bọc trinh thám "hai người họ không tài nào yêu nhau theo cùng một nhịp, mỗi người luôn chậm hay nhanh hơn người kia cho đến khi cái chết cuối cùng mới tìm được cho cả hai một thoả hiệp..." [chuyện ái tình không cho phép giọng nhỏ thì thầm trong mỗi người lên tiếng, dù nó luôn thì thầm thì thầm thì thầm những lời đúng, nhưng chuyện ái tình thì làm sao mà biết đúng sai được :)))]; đến những chương cuối lại như một truyện liêu trai, không khí gothic...

Những kẻ tuyệt vọng do Thuận dịch, là tiểu thuyết thứ 3 hay 4 của Minh Tran Huy, không biết những tiểu thuyết trước thế nào, nhưng Những kẻ tuyệt vọng có đoạn kết bị non, tôi đoán đây không phải tiểu thuyết đặc sắc nhất của Minh Tran Huy nên nếu có dịp thuận tiện, tôi sẽ tiếp tục đọc tác giả này, bởi yếu tố tôi đánh giá cao chính là giọng của cô ấy, chịu ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam nhưng không phải giọng văn chương Việt đương đại. Như Thuận, trong 9 quyển thì ngoài T mất tích, 8 quyển còn lại vẫn đậm màu văn chương Việt đương đại, 1 số trong đó đã xuất bản tại Pháp, quyển mới nhất Thuận còn viết thẳng tiếng Pháp. Còn Minh Tran Huy thì giọng văn chương Pháp, theo như Thuận nói trong Lời nói đầu, Minh Tran Huy cùng những tên tuổi khác "đang làm nên cái gọi là văn chương gốc Việt"

12.7.25

trong hiệu sách



vui và buồn, đọc để mà thở dài :))). Được gợi hứng từ "Weird Things Customers Say in Bookshops" của Jen Campbell [bản dịch tiếng Việt của nxb Kim Đồng trong ảnh], Shaun Bythell viết The Diary of a Bookseller ghi lại hơn 1 năm những chuyện trong và xoay quanh hiệu sách cũ mở ở thị trấn quê nhà. Shaun Bythell đã trải qua những ngày nhộn nhịp, căng thẳng, trầm lắng, khó hiểu kì quặc và nhận ra, như George Orwell nói trong Bookshop Memories [một quyển sách ảnh hưởng đến Bythell nhiều và nghĩ, đáng ra mình nên đọc nó trước khi mua lại hiệu sách cũ The Book Shop ở tuổi 31] rằng: many of the people who came to us were of the kind who would be a nuisance anywhere but have special opportunities in a bookshop [cái tính quái ác của tôi đến đây lại cười, may quá nó còn biết thở dài]

một thị trấn là một thị trấn khi và chỉ khi nó có hiệu sách. Nếu không có, nó biết, có thể người ta vẫn gọi nó là thị trấn, nhưng, nó cũng biết, nó không lừa được ai cả


9.7.25

Thuận



Barthes từng nghĩ văn chương phải nhường chỗ cho tự thuật và, Thuận đã thực hành ý nghĩ ấy. Tất tật các nhân vật của Thuận không hoàn toàn là Thuận, đương nhiên, và, cũng không xa những chi tiết cá nhân Thuận, có thể, đó là cách để tự hiểu mình, chỉnh đốn và viết lại ký ức của mỗi người

Made in Vietnam có thể đọc online trên chính wordpress của Thuận; đây là hình thức viết quen thuộc của Thuận, ngay cả khi lấy T mất tích làm quyển vạch ra giới tuyến viết trước và sau T thì phong cách Made in Vietnam vẫn còn trở lại ở nhiều quyển khác, những câu chuyện dù bối cảnh VN đương đại hay xen kẽ trời Tây, nhưng vẫn sẽ nhắc nhiều đến thể chế, vết hằn lịch sử, di cư nhập cư và cách con người phải tồn tại qua những nút thắt cổ chai đó, người ta được sách vở dạy rằng: "tôi tư duy nên tôi tồn tại" còn các nhân vật của Thuận nói "ở VN cuộc sống dạy: "tôi tính toán nên tôi chưa chết""

Chinatown là quyển có phong cách viết và nhịp khác nhất trong 9 quyển, bắt đầu từ đây, ý nghĩ liên hệ nhân vật và người tạo ra nhân vật - nhà văn Thuận, hình thành; một người đọc thông thường tự nhiên sẽ hình thành ý nghĩ như vậy. Chinatown tôi đọc ngày 7 tháng 7 năm 2009, hôm nay nhìn lại nó tôi mới nhận ra gần như tròn 16 năm; nó vẫn lưu lại trong tôi là một quyển tiểu thuyết có cách viết, nhịp ấn tượng với tôi tại thời điểm đọc nó; hôm qua tôi vẫn chọn nó trong 2 quyển thích nhất của Thuận

Paris 11 tháng 8 là quyển yếu ớt nhất trong 9 quyển. Ngay cả so nó trong bộ 3 gồm cả chính nó, Made in Vietnam, Chinatown, tạo ra 3 cái tên với 3 vùng địa lý dù bối cảnh trở đi trở lại Paris Pháp, Saigon Hà Nội VN, thậm chí Nga... nhưng nó lại là tiểu thuyết đặc phong cách VN những năm 2000. Tại sao đã viết được Chinatown rồi Thuận lại có thể viết Paris 11 tháng 8 nhạt như thế; có thể xem là kết của một chặng

để mở một chặng mới, một cú tạt đường đổi hướng rồi xuất hiện T mất tích. Lần đọc lại này, T mất tích vẫn đứng đầu yêu thích của tôi trong 9 quyển Thuận viết. Nó đúng một tiểu thuyết mà người ta cầm đọc không cần ngó tên tác giả không cần care tác giả này từng đã viết gì và khi kết thúc quyển sách người ta nhận thức "tôi vừa đọc một tiểu thuyết", không một chút tác động định kiến. Một tiểu thuyết rất Pháp và, đến giờ tôi vẫn nghĩ về Céline, Houellebecq khi đọc T mất tích [nhân vật của T mất tích cũng nhắc đến Céline Đi đến cùng đêm]. Thuận thuộc về ngả ấy, có thể lúc viết T mất tích cũng là khoảng thời gian Thuận đọc và dịch Houellebecq, có thể. Cũng từ đây, một cảm giác lơ lửng về xã hội với những con người bức bối trong cái nhàm chán của đời sống được dựng nên và, trở đi trở lại trong những tiểu thuyết sau đó, dù không được làm tới cùng; chính lẽ đó, T mất tích, nhân vật T xuất hiện ngay từ cái tên nhưng cả quyển tiểu thuyết T mất tích, các nét rời rạc, nhân vật T chưa từng xuất hiện, T không phải nhân vật, tên của T có 2 loại dấu, trong con mắt ông chồng Pháp thì cái tên Á châu của T có dấu bên trên và bên dưới, dấu bên dưới không biết đặt vào chữ U hay  🙂. Sau T mất tích, tôi nghĩ Thuận khó viết được gì tiểu thuyết hơn. T mất tích thật

vì ngay sau là Vân Vy. Vân Vy là quyển nhiều đường. Đường ngọt tạo cho người đọc Thuận vui nhất thời với một câu chuyện có vẻ tình. Đọc nó cũng được, không đọc cũng không sao bởi ngay trước đó đã đọc T mất tích rồi, còn gì hơn được nữa ở Thuận

tiếp tục theo đà T mất tích thật là Thang máy Sài Gòn 2013 và Chỉ còn 4 ngày là hết tháng Tư 2015. Cả 2 lại quay về phong cách Made in Vietnam; sau Chỉ còn 4 ngày... tôi đã nghĩ tôi dừng lại Thuận được rồi. Không còn gì

nhưng vẫn là tôi, thấy sách Thuận viết và dịch, tôi vẫn mua và, tôi phải chịu trách nhiệm nên 2 quyển Thư gửi Mina và Sậy là 2 quyển đọc mới hoàn toàn trong lần đọc một vệt 9 quyển lần này của Thuận. Nhân vật chính của Thư gửi Mina là nữ nhà văn gốc Việt sống ở Paris, tên Ma-đam Th 🙂, viết 30 bức thư gửi người bạn Mina gốc Afghanistan mà cô đã mất liên lạc sau ngày họ tốt nghiệp đại học ở Nga 🙂, 30 bức thư được viết trong khoảng hơn 1 năm nhưng tôi nghĩ Thuận đã lồng đã kể gần như đủ chi tiết của nhiều năm viết, đọc và dịch của Thuận [Thang máy Sài Gòn được nhắc đến nhiều nhất, có một quyển gì 2000 tôi nghe quen lắm mà tôi ngại mở ra tìm lại; chi tiết nằm đọc Xạ thủ nằm bắn (Thuận dịch), đọc Duras, Sartre, Modiano (Phố; nhờ thế tôi biết Thuận dịch một quyển của Modiano lấy tên Bé Ngọc, vào wordpress có thể thấy; trong Sậy thì Simenon, Tolstoy, AQ chính truyện Hồng lâu mộng... quyển mới nhất 2025 Thuận viết thẳng tiếng Pháp nhan đề cũng gì gì Tolstoy thì phải) điều tôi không thích là Thuận nhắc đến, trích dẫn nhiều tác giả, nhưng chỉ nhắc, trích những gì được đọc được biết đến phổ biến nhất của tác giả đó, tôi rất không thích điều này khi nhìn người khác đọc; thí dụ cứ Tolstoy là câu điển hình "các gia đình hạnh phúc giống nhau... bất hạnh..." rồi cứ Proust là Swann nhắc cho có]. Thư gửi Mina chỉ thay đổi hình thức giữa việc ta đang đọc tiểu thuyết văn xuôi và ta đang đọc tiểu thuyết là những bức thư [tự nhiên quên cái từ dành riêng cho hình thức tiểu thuyết là những bức thư, Julie hay nàng Heloise đó] còn câu chuyện vẫn là chủ đề quen thuộc. Sậy cũng như vậy [nhân vật chính học văn chương Sorbonne giống Thuận], dù bối cảnh ở Paris Pháp hay Saigon Hà Nội VN thì hôm nay, ta vẫn phải nhìn về những thể chế chính trị, nút vặn vết hằn quá khứ. Thư gửi Mina viết tốt hơn, Sậy 1/3 đầu cũng cho ấn tượng viết ổn định nhưng càng sau càng tuột, đến 1/3 cuối thấy rõ là vụn, nỗ lực vô vọng tìm một cái kết

sau này tôi vẫn có thể tiếp tục đọc Thuận, nếu thuận tiện 🙂 còn mảng Thuận dịch thì tôi vẫn thường theo dõi. Thuận định cư Pháp, một số từ khi viết về VN đương đại dùng hơi lạ, nhưng những đoạn viết về VN cho thấy một Thuận gắt, nó sẽ rất gần với một chỉ mục nhiều người đọc hay đọc ở blog nhilinh "thời chúng ta", Thuận trỏ và gọi tên thời chúng ta sắc hơn phần lớn chúng ta đang sống ở đây, lúc này. Một cá tính không phải vừa 🙂

ps. hôm lâu nói chuyện với một đứa tiểu iêu gần 35 tuổi rồi, trích một câu trong stt của bạn fb có từ "tuột xích" đại ý anh a cô b dân văn khoa tuột xích :))) đứa tiểu iêu này đọc hiểu kém, nó cái gì cũng đòi tra từ điển đầu tiên trong khi ngôn ngữ có tính tượng hình tượng thanh mô phỏng và cho cảm nhận rất tự nhiên, nhất là trong văn cảnh, màu sắc câu cú rõ ràng... nhưng nó cứ đòi phải tra từ, nghe không hiểu là cứ hỏi ngay [mà nhiều việc nếu nghe mà tự nhiên không hiểu thì có giải thích thế nào cũng không hiểu đâu], nó cứ hỏi tuột xích là ý làm sao; tôi bảo nghe câu văn không hiểu à, rồi giải nghĩa cho nó về tuột xích theo cách hiểu của tôi [tôi đã không hiểu sai, dù tôi chưa đọc nó bằng văn bản hay nghe tiền bối nào nói, tôi hay nói tôi nghèo mọi mặt trận là thế]. Nhưng tôi gần như chưa đọc từ "tuột xích" được in vào sách, trước đấy cũng chỉ thấy trong Thang máy Saigon, có lẽ các bạn làm mấy mảng chính trị, báo chí chính thống chắc sẽ nghe tiền bối nói nhiều và nhìn thấy nhiều; trong Thư gửi Mina, "tục xích" "tuột xích" cùng nhau xuất hiện và nó gắn với motif quen một thời chúng ta, được cử đi học đi công vụ ở Đức ở đâu đó thì "tuột xích"/"tục xích" ở Pháp hay đâu đó và không trở về VN - thời ấy người ta nói "dạng tuột xích"/thành phần tuột xích 🙂

8.7.25

T mất tích thật




chưa cần đọc 2 quyển gần nhất của Thuận xuất bản ở VN thì tôi cũng biết Thuận khó lòng viết được gì hay hơn T mất tích; đọc lại T mất tích vẫn thấy đáng, sau T mất tích thì T mất tích thật. Một tiểu thuyết rất Pháp, khác hẳn Paris 11 tháng 8 tên và bối cảnh Pháp nhưng lại là tiểu thuyết rất VN trong giai đoạn những năm 2000 [chán è sorry]

7.7.25

the owl

 


quyển đầu tiên đọc của Patricia Highsmith là Người lạ trên tàu, Highsmith thực hành văn chương homage Poe, Dostoievski không thể tuyệt vời hơn; nên đã tiếp tục đọc Tiếng cú kêu [một nhân vật trong Tiếng cú kêu cũng đọc Quỷ và băn khoăn sao Kirilov phải nói nhiều thế trước khi chọn cái chết, Kirilov thực sự đã nghĩ gì về sự hiện hữu của Thượng Đế, nhân vật này còn biết giữa Yeats, Keats và Blake thì chọn đọc ai mới đúng vào thời điểm mà các suy nghĩ của họ nảy ra...]

một quyển trinh thám thiên về tâm lý nhân vật, đây là thế mạnh của Highsmith và nhiều người chỉ chuyên đọc trinh thám chắc sẽ tiếp tục gặp thử thách với tác giả và phong cách trinh thám này. Tiếng cú kêu thực sự gây bức bối cho người đọc, đọc nó cảm thấy nhộn nhạo trong lòng, lo thay cho các nhân vật mà mình đã chọn lựa đứng về phía họ ngay từ những dòng đầu tiên cho thấy mình đã lựa chọn được nhân vật của mình. Tại sao lo à; vì các kịch bản cuộc đời cho ta bài học, những người không sợ nhiều, cái mà phần đông thường sợ, thì cách hành động, tư duy cuộc sống, số phần của họ sẽ phải chịu các lực giáng khủng khiếp hơn [Ông Trời cho chơi game khó, có thể nghĩ ông ấy là trẻ con thích trêu cợt và hay ghen với con người cũng chẳng ngoa đâu, có gì sai à]. Ở đây là cái chết, nhân vật của truyện đã có những nhìn thấy trước như vậy, tiếng cú kêu
với họ là hiện thân của điều đó [tí nữa tôi phải search xem phiên bản phim của truyện này mới được, xem đạo diễn chọn khuôn mặt diễn viên thế nào, vì tâm lý tất tật các nhân vật trong truyện và phản ứng của họ đều khiến tôi ít nhất cũng phải nhướn mày tự hỏi "thật ư, làm thế nói thế được à"]

tên nguyên tác The cry of the owl làm tôi nhớ đến một bài thơ The owl của Edward Thomas tôi đọc hồi mấy năm trước, tìm hiểu về Edward Thomas cũng vì từ hướng Walter de la Mare của tôi thôi

ps. sách hơi nhiều lỗi typo cho dung lượng khoảng 450 trang khổ cơ bản cỡ chữ to [đọc sách XBK, Forma rồi, nhìn sách gì cũng thấy chữ to như quả trứng gà :p]

#Tiếng_cú_kêu
#Patricia_Highsmith

1.7.25

Marie-Aude Murail



một tác giả hiện đại có mảng riêng viết cho thanh thiếu niên tôi thích. Không giống Neil Gaiman, tôi nghĩ đã đủ, có thể khép lại; tôi vẫn sẽ tiếp tục đọc Marie-Aude Murail, nếu còn được dịch

4 quyển trong ảnh, tôi đọc Oh Boy năm 2010, ngay sau đó là Nỗi niềm anh trông trẻ 2011, vài năm sau Người anh không lớn và gần nhất, hôm nay vừa dứt Tiểu thư Charity. Còn thứ tự sáng tác và xuất bản thì như trong ảnh. Quyển ít ấn tượng nhất là Nỗi niềm anh trông trẻ, 3 quyển còn lại tôi không biết mình thích quyển nào hơn 🙂

charity



lâu lắm mới đọc một quyển tiểu thuyết có thể xem là viết cho thanh thiếu niên, độc giả trẻ, tất nhiên, tuổi nào cũng đọc được nó chứ, mà cảm thấy dễ chịu thích thú như thế này. Nó sẽ là nguồn cảm hứng cho người bị xem là "không đổ vừa" cái khuôn của các chuẩn mực, cũng như "không thích hợp" để làm gì đấy; nhưng nguồn cảm hứng này không viết những lời suông như cháo súp mềm uống ực cũng xong. Một cách để thuần hoá con chim hoang dã của mình và nhận ra giọng chủ của nó, đó là giữ nó luôn hoạt bát, ý chí hoạt bát và sự cần mẫn kiên trì, đừng quên kỷ luật sẽ đưa ta đến được nơi mà dục vọng chỉ có thể "muốn" và, ở đó, tài năng được chín muồi chính trong sự cô độc; hãy nhớ

Tiểu thư Charity được Marie-Aude Murail viết nhiều màu sắc kịch, dựa trên thời thơ ấu và một quãng trưởng thành của Beatrix Potter; lấy bối cảnh nước Anh cũng gần khoảng niên thiếu của Beatrix, những năm 80-90 của thế kỷ 19; thế nên đã có Oscar Wilde và Bernard Shaw xuất hiện, ngay cả thời điểm Wilde ngồi 2 năm tù cũng là sự kiện được nhắc đến. Tôi luôn thích thế giới các tiểu thuyết châu Âu thế kỷ 18, 19 nên Tiểu thư Charity có đúng các tiêu chí cơ bản, đặc biệt câu chuyện dựa trên một phần tiểu sử của Beatrix Potter của tôi, lại được viết bởi một tác giả hiện đại tôi yêu thích; tôi thích nó có thể xem là đương nhiên

nhân vật Charity trong gần 500 trang sách luôn làm người ưa mơ mộng, sống cô độc khép mình như tôi [nhưng tôi không là người mơ mộng] tự nhủ, rất có thể, nếu mình là người quảng giao, không nhút nhát, không cô đơn, mình đã sống khác, không làm bạn với sách vở cây cối các con vật và như vậy, thật đáng tiếc quá, chỉ một lần đến để ăn và bị ăn [theo Hamlet]. Tôi nhìn thấy một phần mình qua nhân vật Charity, tất nhiên, ý chí sự nhân hậu kiên trì chăm chỉ của cô ấy, tôi không tính đến rồi 🙂 [nhân vật nam chính trong truyện đã nói một câu vừa thật vừa cợt, đại ý, tên là Charity thì hẳn người ta phải dễ chịu lắm]

trong không khí lúc này, từ tiểu thư Charity - nhân vật có tâm hồn sống động, tụng Shakespeare đến thuộc, không chỉ kịch mà cả sonnet, tôi muốn quay lại đọc Shakespeare và Jane Austen [tôi nhìn tôi, luôn thấy mình gần thế giới các tiểu thuyết của Austen], mảng kịch của Oscar Wilde và Bernard Shaw [tôi đã bỏ ngang Shaw đang giữa truyện ngắn, khi đọc các nhân vật của Tiểu thư Charity trích dẫn lời kịch của Wilde và Shaw, tôi thấy hứng thú lại; tác giả Marie-Aude Murail đã đề lời cảm ơn đầu sách tới chú thỏ của Beatrix Potter, chú quạ của Charles Dickens (tất nhiên rồi) và Oscar Wilde, Bernard Shaw chính vì như vậy, những thoại kịch đã đóng góp rất nhiều màu sắc cho quyển sách]

ps. sách có khoảng 20 lỗi typo

25.6.25

mở ra và khép lại



lần đầu biết đến Neil Gaiman là Câu chuyện nghĩa địa, 16 năm trước. Ngay sau đó là Coraline, ít hứng thú. Vài năm sau, 2015, đọc Còn sữa là còn hy vọng, nghĩ, thôi có thể dừng Gaiman lại rồi. Nhưng thói quen mua sách quá tai hại, một ngày nhìn loanh quanh có tận 7 quyển Neil Gaiman trong nhà; như thế thì phải cho một kết cục mà mình đã khởi sự; đọc giờ đây là từng pha đối diện để ra đòn kết liễu

những câu chuyện hư cấu của Gaiman hay của bất cứ thế giới tưởng tượng nào mở ra, cho phép ta xâm nhập vào tâm trí những kẻ khác, những nơi chốn khác và, nhìn ra qua những cặp mắt khác. Ta vạch nên các ranh giới, giới tuyến với những khoảnh khắc trải nghiệm và ở lại trên những hòn đảo của riêng ta, để chúng không tác động đến ta, xui khiến ta chìm trong trải nghiệm của chúng dựng nên không lối thoát

John Donne hay được Neil Gaiman trích dẫn, nói: không ai là một hòn đảo. Nhưng nếu mỗi người không là những đảo thì hẳn sẽ lạc lối, trết chìm nghỉm trong bi kịch của nhau; chính bản chất đảo đã cách ly ta khỏi bi kịch của kẻ khác để có thời giờ đối mặt bị nghiền nát bởi bi kịch bất hạnh của riêng mình, làm sao có thể sống mà không, bởi trật tự và thể thức lặp đi lặp lại của các câu chuyện của những mẫu kịch bản đời sống con người. Kịch bản đó dẫu anh có thêm thắt hay lược bớt chi tiết dựa trên kinh nghiệm của chính mình thì nó cũng không nguyên mẫu chẳng kém câu chuyện nào, mà cũng độc nhất như bất kỳ cuộc đời nào

đọc, như mở ra thế giới được phủ một lớp xà cừ trơn nhẵn, nhẵn như những hạt châu, an toàn trượt khỏi tâm hồn ta không làm ta đau đớn đến mức không thể trở về thực tại như thực tại từng vẫn hay giáng đòn, như một phép kéo giãn vùng giảm chấn. Và rồi, trong thế giới các câu chuyện, ta sẽ dừng lại trước khi ta trết, hoặc, ta nếm trải cái chết của kẻ khác như một trải nghiệm hình thức và, ở thế giới ngoài câu chuyện, ta giở một trang nữa hay gấp sách lại. Ta trở về cuộc sống của mình. Một cuộc sống như bao cuộc sống khác, cũng lại không giống bất kỳ cuộc sống nào đã từng mở ra và, khép lại

khép lại Neil Gaiman được rồi, Câu chuyện nghĩa địa vẫn là quyển ghi dấu ấn nhất, rơi vào motif kinh điển, tình đầu khó quên 🙂. Thứ tự xuất bản của Gaiman như ảnh chụp


24.6.25

thần thoại



niềm vui từ các câu chuyện thần thoại là nó chỉ đơn giản là câu chuyện không chứa các trải nghiệm cho thế giới con người; chấp nhận hay không chấp nhận thì nó cũng thuộc về những câu chuyện kể cổ xưa, không người lớn không trẻ con không phân biệt đúng sai. Nó chỉ là nó, đã tồn tại là đã tồn tại, được kể ra là kể ra, phiên bản dù có là thế nào, được kể ra sao, được tiếp nhận thế nào thì nó vẫn ở đấy sừng sững không phán xét mang tên thần thoại

thế giới các vị thần Bắc Âu - Asgard, qua lời kể châm biếm, có mạch truyện xuyên suốt của Neil Gaiman hiện lên đầy lừa lọc gian dối, giết chóc và âm mưu; Asgard không cho tôi hứng thú gì mấy, thậm chí còn thấy hiện lên hình ảnh của "bọn cửa trên", có tất tật, biết tất tật cách thức vận hành etc. thì có gì vui, chán ốm, vô vị; có thể chính vì không vui nên thế giới các vị thần luôn vẽ ra việc để khịa thế giới ngoài Asgard. Nếu chưa từng biết về các vị thần Bắc Âu, đọc Những vị thần nước Mỹ của Gaiman rồi, thì đến Thần thoại Bắc Âu sẽ có nhiều chi tiết được lý giải vì sẽ gặp lại Odin, Loki, rượu mật, lễ vọng treo mình 9 đêm trên cây thế giới Yggdrasil...

cách kể chuyện của Gaiman mang tính hệ thống lần lượt chương hồi, trong dung lượng này thì chỉ chú trọng tình tiết, không trông mong nghệ thuật được; tuy nhiên, rất thi thoảng Gaiman gài một câu bình luận đắt giá, một câu đáng nhớ là Thor nói, khi mái tóc vàng của nữ thần Sif - vợ Thor, biến mất "hắn đã cạo trọc đầu nàng", hắn là ai, là Loki và Sif hỏi Thor sao lại nói như vậy, "bởi vì, mỗi khi có chuyện gì không ổn thì điều đầu tiên ta nghĩ đến là, đó là lỗi của Loki. Như thế đỡ tốn thời gian hơn" :)))

với tôi, Loki là một nhân vật thần thoại hay. Một biến số. Không phải thần, là anh em kết nghĩa với Odin, không ai biết hắn đến thế giới các thần từ khi nào hay bằng cách nào, có thể xem Loki là bạn và cũng là kẻ phản bội Thor [Loki là cha của quái vật mãng xà, sói... góp mặt trong trận chiến tận thế, tất nhiên, không cùng phe với các vị thần; kết thúc trận tận thế, hai người chui trong cây thế giới Yggdrasil sống sót là người phụ nữ mang tên Sự Sống và người đàn ông mang tên Mong Cầu Sự Sống, hai cái tên hay, đúng tính chất giới]; Loki dáng vẻ nhỏ thó [bố là người khổng lồ, tên có nghĩa là kẻ giáng những đòn nguy hiểm và ông ta nguy hiểm như cái tên, nhưng mẹ thì mảnh dẻ, xinh đẹp, sắc sảo nên tên của bà có nghĩa là cái kim], rất đẹp trai, dẻo miệng, đầy sức thuyết phục, ranh mãnh, tinh vi và xảo trá [tất nhiên liều lượng tương đương là giận dữ, đố kị, ganh ghét và tham lam, có thể xem Loki là tác giả của nỗi phiền muộn, đồng thời, những trò vui tinh quái, yêu thích chơi khăm kẻ khác và cũng cay cú nhiều ngang như bị kẻ khác chơi khăm]; tinh ranh khôn ngoan xảo quyệt hơn bất cứ vị thần và người khổng lồ nào, ngay cả Odin đã hy sinh một mắt của mình để đổi lấy sự thông thái cũng không có cửa ranh mãnh với Loki. Các thần chịu đựng và quý mến Loki vì những kế hoạch, mưu mô của Loki đã cứu họ nhiều không kém gì rắc rối chúng gây ra. Biến số Loki này khiến thế giới sặc sỡ hơn, khó kiểm soát và kém an toàn hơn; nếu không có biến số này, thế giới không xứng là một nơi vui chơi; đáng giá, quá đáng giá, phải thế, thế mới vui [đừng bài cái xấu cái độc cái tà, hay những cái ở "phía kia", phải cân bằng, thậm chí hơi lệch tí tì ti cũng được, phải phá mới thành]


22.6.25

đêm qua tôi đọc xong câu chuyện của Gaiman và ngủ mơ mình là một thằng bé đang tập trung "làm phép" để xây dựng kết giới bảo vệ nhà cửa cây cối vùng đất của mình; nhưng kết cục của giấc mơ là tôi bị mẹ mình phản bội

sáng nay trở về từ giấc mơ, tôi đinh ninh thằng bé xây dựng kết giới ấy là thằng bé trong truyện của Gaiman, cho đến khi tỉnh hẳn, chỉ 2-3s sau, tôi nhớ ra đó là thế giới trong mơ, nhưng cảm giác bẽ bàng bất hạnh khi bị mẹ phản bội thì dư vị còn nguyên không trôi. Đúng là vết thương thực tại khó lành, trong mơ, dù đã là một đứa bé trai là hiện thân của tôi, không hẳn là tôi, định mệnh vẫn không buông tha :)

vui chơi



ngày bé tôi thường tự hỏi, mà đến giờ tôi vẫn thi thoảng tự hỏi mỗi khi nhìn mình trong gương dù tôi cũng không thường soi mình, tôi là ai và cái gì đang nhìn bộ mặt trong gương, hay là, trong gương là cái gì đang nhìn tôi. Nếu, cái đang nhìn lại tôi không phải là tôi, có lẽ không phải thật, vì có thế nào thì tôi vẫn đang là tôi dẫu trông mặt tôi có thế nào đi chăng nữa; thế nhưng, như vậy, thì cái gì là tôi và cái gì đang nhìn lại tôi

khải ngộ là những giây phút tôi nhớ ra, vẫn ở đấy nhưng bỗng nhớ ra do bỗng quên mất; rằng, chẳng ai trông như con người thực sự bên trong mình cả, người ta phức tạp hơn nhiều, ai cũng như ai, đều như thế cả. Có một cái lỗ trong tim, nơi mà dục vọng, bóng tối không bao giờ chịu rời đi bằng hết, nếu mà dục vọng có thể biến mất thì hình có thể biến nhưng bóng thì vẫn còn cho lũ chim đói, những kẻ hốt dọn như kền kền hủy diệt nốt; kền kền mà đến thì cây sự sống cũng biến mất, chúng dọn dẹp hết chẳng chừa. Nhưng chẳng phải con người thực bên trong, cũng như tất tật mọi thứ sống quanh đây đều cần dục vọng bóng tối sự huỷ diệt cũng như những điều tốt đẹp cần được trồng hay sao [thứ tốt đẹp không tự nhiên sinh ra, chúng phải được trồng]; thế giới cần thiết phải như vậy, sự cân bằng, chính nó duy trì trật tự sự sống và phép nối dài: phải phá thì mới thành

Neil Gaiman tạo ra một phép phúng dụ, cái ao vịt của vùng đất huyễn huyền [nơi mặt trăng tròn đầy khi mặt trăng của thực tại khuyết và ngược lại] là đại dương tâm thức, nơi tắm mình của bản nguyên linh hồn trước khi đến với sự sống, nếu cứ soi mình trong nó thì ta cứ soi vào mãi vô tận trong chính mình. Nơi khi một cậu bé 7 tuổi tắm mình, bỗng hiểu mọi sự thế gian, nhìn thực tại đúng như nó là; thực tại mà trước đây vốn biết chỉ là lớp kem trang trí bề mặt của một bánh sinh nhật khổng lồ, trông chúng quá ảo cảnh, bên dưới chúng là những gì tù mù lúc nhúc ta từng không hay biết; và người ta khó lòng muốn rời khỏi đại dương ấy, nơi đã cấp cho người ta mọi góc nhìn mọi quan điểm và, như thế, có lẽ nếu có thể, người ta từ chối đến với sự sống của thực tại, người ta chọn mãi mãi là một linh hồn, mãi mãi là một đứa trẻ, không trở lại với thực tại của người lớn nữa

nhưng biết mọi chuyện vận hành ra sao, hiểu thấu tất tật thì có gì đặc biệt đâu nào. Và nếu ta muốn vui chơi thì phải thật sự từ bỏ tất tật những thứ biết ấy. Không chịu vui chơi thì tội cũng nặng như không lòng tin không đức tin

Neil Gaiman là độc giả của Chesterton, không phải vì cái câu mở đầu Coraline mà Gaiman nói là của Chesterton đâu, cũng không phải trong các trang viết Gaiman nêu tên Chesterton đâu. Mà đọc, đọc sẽ nhận ra đây là thực hành văn chương của Gaiman tỏ lòng với Chesterton, tất nhiên còn cả Lewis và Tolkien nữa. Nhưng thứ tác động mạnh nhất vào thế giới của Gaiman chính là các câu chuyện thần thoại, chúng không phải truyện người lớn mà cũng chẳng phải truyện thiếu nhi; điều tuyệt vời là các câu chuyện thần thoại chỉ là như thế thôi, nó chỉ như thế tồn tại, bất chấp mọi thứ, thế mới hay 

18.6.25

linh thiêng và báng bổ



là Thần tức là từ bỏ sự tồn tại trần thế để trở thành một yếu tố văn hóa, một yếu tố sống mãi trong tâm trí con người, như giai điệu một khúc hát ru. Con người sẽ tự tái tạo Thần trong tâm trí của mỗi riêng mình họ, đồng nghĩa, Thần không còn căn tính riêng của Thần nữa, thay vào đó, các vị thần, anh là, ngàn bình diện của thứ người ta cần anh là [người hùng mang nghìn khuôn mặt, chính là ý này, ở phía của tâm linh, không phải tôn giáo] và mỗi người lại muốn ở anh những thứ khác nhau, không có gì cố định, không có gì bất biến, dẫu vẫn mẫu số chung. Các vị Thần không bất tử, chừng nào còn có người tin và thờ phụng, họ vẫn sẽ sống, ngược lại, sẽ tan biến vào hư vô; con người đương nhiên không dùng từ bất tử, con người dùng sống và chết, con người chỉ thực sự chết khi sự quên lãng là hoàn toàn và con người, như Shadow - nhân vật chính là đại diện con người (mang nửa dòng máu thần) có nói, là con người, chúng tôi chẳng cần ai tin hay thờ phụng vào chúng tôi cả, chúng tôi vẫn tìm ra cách để sống tiếp, chúng tôi là thế

nhưng tại sao lại là Những vị thần nước Mỹ, tại sao lại là Mỹ. Neil Gaiman tạo ra một câu chuyện dài, một thế giới tưởng tượng pha trộn những tín ngưỡng dân gian, tôn giáo, thần thoại... đại diện cho những vị thần cổ xưa tồn tại nhờ niềm tin và sự thờ phụng của con người và, ở phe kia là các vị thần mới gồm những truyền thông, công nghệ, cao tốc, thẻ tín dụng..., đại diện cho đời sống hiện đại con người tôn thờ, phụ thuộc và quên đi những vị thần xa xưa. Còn nơi nào phù hợp hơn, người ta thường nói việc quái gì cũng có thể diễn ra ở Nhật và người ta cũng thường nói, Mỹ - vùng đất của cơ hội, tự do, giao thoa văn hóa, rộng rãi hào phóng cho mọi màu da văn hóa... việc quái quỷ gì cũng được phép và không được phép ở đây vì, sự hỗn loạn, lịch sử nghèo nàn so với lịch sử các nước khác có cùng biên độ chuộng công nghệ và đời sống hiện đại phát triển. Người ta quên nhiều thứ, đâu riêng gì những vị thần, đức tin hay lịch sử; trong thế giới hỗn loạn như vậy, một số không nhiều lại thực sự giàu lòng tin, càng chao đảo người ta lại càng khao khát và vững tin, như một tất yếu

quyển sách khổ to, 650 trang, câu chuyện không phải là không cuốn hút, nhưng kéo cả 2 tuần dù mỗi lần mở ra đọc đi 60-100 trang không muốn gấp sách lại. Vì ngày nào đọc nó trước giờ ngủ, đêm ấy sẽ mơ những sinh vật kì lạ, những thứ không ở đây, có buổi sáng ngủ dậy tôi đã phải nhìn một sinh vật đầu đại bàng còn thân là sư tử [điểu sư đấy; cách đây mấy năm tôi mơ tôi cùng một con hổ trắng (giờ tôi còn không rõ mình cùng nó hay chỉ có mình là hổ trắng) canh giữ một gian nhà trên núi, có mấy giá sách thôi, và sách cũng không nhiều nhặn gì]. Như thế giới của H. P. Lovecraft từng mở ra với tôi, chúng khiến ta mơ

ps. có một dạo Neil Gaiman dính cáo buộc qrtd, ldtd... tôi không bất ngờ. Thế giới tưởng tượng thuộc về thần thoại, xung năng bạo tàn vươn mình gói trong thân xác người phàm nhỏ bé yếu ớt và cuộc sống hiện đại, không dễ sống tí nào, ai bảo ta là con người đời sống ngắn ngủi luôn cầu sống

31.5.25

stardust




chùm sao xa, một thứ quyến rũ mơ mộng lãng mạn đa cảm huyền bí - thứ nằm ngoài tầm với. Giống như những câu hỏi Xứ Tiên lớn như thế nào, Xứ Tiên bao xa... chúng không cho phép câu trả lời đơn giản

bài thơ Song: Go and catch a falling star của John Donne thật hợp với câu chuyện Bụi sao, chính thế mà được chọn làm bài đề từ, thơ John Donne luôn cho ý nghĩ ta hoàn toàn có thể thích bài thơ mà không cần hiểu, chính vì không hiểu mà như lạc vào mộng ảo, thơ mới là thơ. Tiểu thuyết Bụi sao được chuyển thể từ phiên bản truyện tranh cũng do Neil Gaiman viết; nó không át được sự yêu thích của tôi khi lần đầu đọc Neil Gaiman với Câu chuyện nghĩa địa, lâu rồi


16.5.25

sa mạc và biển cả



trong lúc giải lao, kiếm một quyển trinh thám đọc. Quá sẵn trước mắt, quyển duy nhất của Bussi chưa đọc trong nhà và, hình như là quyển Bussi còn lại duy nhất tới lúc này. So với những gì đã đọc Michel Bussi thì Mã 612: Ai đã giết Hoàng tử bé, là quyển trinh thám yếu ớt, thậm chí gây thất vọng. Cái cứu vãn, giữ chân tôi đọc không bỏ sót không nhảy cóc, thậm chí nhiều đoạn đọc lại, không phải vì nó là một quyển trinh thám của Bussi mà tôi từng nói Bussi được dịch quyển nào tôi sẽ đọc quyển đó không bỏ qua, cũng không phải vì nó là một quyển sách về Hoàng tử bé [không phải taste của tôi], mà vì nó chứa nhiều chi tiết về Saint-Exupéry, tôi muốn biết người khác nghĩ gì về chúng. Quyển trinh thám này được xem như một tổng hợp các chi tiết cơ bản về Antoine de Saint-Exupéry [còn được gọi Saint-Ex, Tonio], cũng như các khả thể mà một tiểu thuyết có thể thâu về sự vụ mất tích của một phi công là nhà văn; vì chọn vụ mất tích hiện vẫn còn là một bí ẩn, liệu đến một ngày nào đó, tất cả chúng ta đều sẽ có vẻ như đã chết, nên Bussi hẳn đã đọc nhiều tài liệu, những lời chứng mâu thuẫn nhau và, cách nhìn văn bản Hoàng tử bé như một ẩn dụ ứng với các sự kiện của tác giả

tôi có linh cảm theo hướng ác cảm rằng, sẽ chẳng có gì cho tôi với những người thích Hoàng tử bé, họ càng cuồng Hoàng tử bé thì tôi càng phải tránh xa dẫu cho ngay ấn tượng ban đầu cho thấy tôi và họ hoàn toàn có thể hợp nhau thế nào [thứ duy nhất liên quan Hoàng tử bé, ngoài quyển sách, trong nhà tôi là một tranh khổ nhỏ do Sun mới vẽ tặng gần đây, thế nên tôi giữ; chứ những kẹp sách etc. Hoàng tử bé, vô tình lạc vào nhà tôi là tôi đẩy đi bằng hết]. Nhưng nếu họ là độc giả của Saint-Exupéry thì câu chuyện lại hoàn toàn khác; nhờ quyển trinh thám của Bussi mà tiện đường, đang từ nghỉ giải lao bằng một quyển trinh thám, tôi ngoặt sang đọc Saint-Exupéry trong nhà; cũng tiện, coi như được một vệt xem còn có thể đọc lại hay không; lúc trẻ tôi từng nghĩ Hoàng tử bé là thứ tôi có thể đọc lại qua mỗi năm, nhưng hóa ra dù đã đọc ít nhất 2 lần lúc trẻ nhưng tôi lại chẳng đọng lại gì, thậm chí nếu không đọc lại các trích dẫn Hoàng tử bé nhắc đi nhắc lại trong Mã 612: Ai đã giết Hoàng tử bé, tôi còn chẳng thể nghĩ đã từng đọc nó

15.5.25

Mauriac thơ



lần đọc Mauriac này, đọc lại Bí ẩn nhà Frontenac nối vào đọc mới Sa mạc tình yêu và Người đàn bà đạo đức giả với mối nối bởi những nhân vật cậu bé ngưỡng tuổi 15-18 và cần tìm lại vài thứ. Với tôi, Bí ẩn nhà Frontenac như bán tự truyện của Mauriac, khiêm tốn thì tôi nghĩ nó chứa nhiều chi tiết, rất nhiều chi tiết của chính Mauriac

Bí ẩn nhà Frontenac đọc khoảng 20 năm trước, 8 năm trước lúc đọc Người vợ cô đơn là không còn nhớ gì về nhà Frontenac ngoài cảm giác hạnh phúc gia đình êm đềm mà tôi đánh đồng "hình như là hạnh phúc của chính gia đình Mauriac", tôi đã nghĩ là mình đã nhớ không nhầm. Sau hơn 20 năm đọc lại nhà Frontenac, đúng, tôi đã nhớ không nhầm, nhưng tôi cảm nhận khác xưa, không phải cảm giác êm đềm của hạnh phúc gia đình lấn át mà là cảm giác mọi thứ trôi tuột bất khả vãn hồi, bị xua đuổi khỏi thiên đường ấu thơ, ở độ tuổi 15-16 sớm mù mờ thấy tình cảnh này và ngoài 20 nhận ra sờ sờ một trình hiện sa mạc, làm sao để có ý chí tiếp tục nếu không có ý chí của Đấng nào đấy hiện hữu. Mauriac - nhà văn Công giáo, khí chất con người Công giáo và Bí ẩn nhà Frontenac là một tia sáng của tình yêu vĩnh cửu [theo con mắt người có đạo] được khúc xạ qua một dòng họ

que les oiseaux et les sources sont loin/ ce ne peut être que la fin du monde, en avancant [Rimbaud]

tôi đọc lại nhà Frontenac vì muốn tìm lại mấy đầu mối, tôi luôn nghĩ đây là bán tự truyện, đặc biệt là giai đoạn Mauriac thơ, Mauriac chưa đầy 20 tuổi. Cậu bé Yves Frontenac là hình ảnh thơ ấy, 15/16 tuổi cậu hay ngồi một mình lánh mọi người, cần và muốn một mình, lén viết những vần thơ "những gì vốn là bí mật của nó và Đức Chúa [...] họ hiểu gì về cái ngôn ngữ mà chính nó không phải lúc nào cũng có chìa khóa mở vào" mà anh trai cậu hay người khác đọc cho rằng đấy là thơ Rimbaud trong khi cậu còn chưa nghe đến Rimbaud bao giờ "Rimbaud là ai"; rồi những bài thơ được Paul Morisse duyệt, đăng trên Mercure de France; Yves nhận sự khích lệ của Gide [trong truyện, khi đã tới Paris (tất nhiên Bordeaux, quê hương của Mauriac, luôn xuất hiện trong tiểu thuyết của ông, cũng là nơi từ đó những cậu bé lớn lên, trưởng thành và từ đó mà đi), được các bà các cô hỏi nghĩ gì về Paludes của Gide, Yves nói mình chưa đọc nó; và ai cũng biết Gide và Mauriac có giai đoạn cỡ 40 năm correspondance], nhận sự ca ngợi của Thibaudet, gặp gỡ Barrès... và tôi còn phải tìm dấu vết, Balzac, Baudelaire rõ rồi [ông bố Michel của Yves là người kinh doanh mơ mộng luôn mang theo mình một quyển sách khổ nhỏ, một nhân vật làm ăn trong truyện bắt gặp ông Michel hôm ấy có La charogne của Baudelaire (chắc ông ấy muốn nói Une charogne) nằm vương vãi trong văn phòng và trong mắt nhân vật "bắt quả tang" này thì Baudelaire hiện lên như người viết ra thứ nhảm nhí và mong rằng người bạn làm ăn Michel của mình có chút ngượng ngập khi bị bắt chợt, không đọc những thứ nhảm nhí như vậy] nhưng tôi nhớ có một chi tiết mà khi đọc Sa mạc tình yêu với Maria Cross được bao nuôi, làm tôi nghĩ đến một người phụ nữ thoáng qua cũng của Mauriac nhưng ở quyển nào thì không nhớ, đọc lại nhà Frontenac mới tìm được bà Joséfa được người chú Xavier của Yves bao nuôi - người phụ nữ đáng kính dẫu thô sơ này thoáng cái đã biết nhìn nhận cô nàng của Yves là hạng đàn bà không hơn gì những cô ả xuất hiện trong truyện đăng feuilleton của Charles Mérouvel - một nhà văn hiểu rõ loại người ấy

Mauriac có con mắt ác hiểm nhìn bản tính con người - lòng tốt là đối trọng cho cái ác của thế gian, tương tự như vậy, là những cặp phạm trù đối trọng nhau, con mắt ấy vừa lọc lõi, vừa tinh hiểm, nhưng cũng rất nhân từ dẫu cho những con người ấy cầu nguyện Chúa rồi lại báng bổ Chúa và ngay cả nghịch âm ấy theo lối nhìn của Mauriac cũng nằm lòng Thiên Cơ, những con kiến người vẫn cần mẫn như không, không có vẻ gì nhớ đến những cực hình, vô vọng đã qua. Yves hiện lên qua mắt mọi người trong gia đình cũng vậy, hễ mọi người ồn ào vui vẻ thì nó cau có, nhưng hễ có việc xáo trộn trong nhà thì hình như mặt mày nó lại có vẻ hào hứng hồ hởi; có một cảnh Yves tóm con kiến vứt xuống hõm cát và nhìn nó leo lên rồi tụt xuống rồi lại leo lên rồi lại tụt xuống, cái phễu cát như con quái vật muốn nuốt chửng con kiến, cậu quan sát quan sát, rồi kiếm lá thông hớt con kiến ra, lúc này nó mềm oặt và bất lực, rồi nó tiếp tục bò đi cần mẫn như không có gì từng xảy ra, cậu nghĩ đến mình đến tiếng nói bên trong "giữa trật tự ghê tởm của thế giới, tình yêu đem lại sự đảo lộn tuyệt vời. Đó là bí mật của Chúa và những người theo gương Chúa... Ngươi được chọn vào việc đó, ta đã chọn ngươi để xáo trộn tất cả. Ngươi biết rõ ta là ai. Ta đã chọn ngươi"; dẫu tự đáp lại tiếng nói bên trong "Không! Không! Không!

và dẫu, Mauriac luôn yêu những tội lỗi, những con người chịu đọa thì sự luôn rõ ràng, đã luôn rõ ràng, những đứa con cứng đầu, trong tất tật, lại là đứa gần Chúa [Dieu] nhất "cậu sẽ không chọn, không gì bắt cậu phải chọn, có lẽ cậu đã sai khi nói "không" đáp lại giọng nói yêu cầu nọ mà có khi là của Chúa. Cậu sẽ không từ chối bất cứ ai. Có thể đó sẽ là bi kịch của cậu, từ đó nảy sinh tác phẩm; tác phẩm, đó là biểu hiện của sự giằng xé. Không từ chối cái gì, không từ chối cái gì cho mình. Mỗi khổ đau, mỗi đam mê đều đắp điếm cho tác phẩm, làm lời thơ bay bổng. Và vì nhà thơ chịu giằng xé nên nhà thơ được tha thứ "Je sais que Vous gardez une place au poète - dans les rangs bienheureux des saintes légions"..."

nhân vật Yves ở tuổi ngoài 20 phải mất nhiều năm về sau mới nhận thức được vị trí của mình, đánh giá được vinh quang của mình. "Vốn là người tỉnh lẻ, luôn kính phục những tài năng đã thành danh, một thời gian dài cậu chưa biết, lờ đi, rằng, chính cậu cũng là một tài năng: vinh quang nảy sinh âm thầm, mơ hồ, tìm đường đi như chuột chũi, chỉ xuất hiện trước ánh sáng sau một hành trình dài dưới lòng đất [...] Yves còn ngần ngại với chính mình, còn tảng lờ lời gọi mời của Paris, cưỡng lại tờ tạp chí tiên phong quan trọng nhất, thậm chí còn do dự chưa muốn gộp các bài thơ thành tập, cũng bởi một nỗi âu lo đang chờ cậu, thơ ca của cậu càng chinh phục nhiều trái tim, cậu sẽ càng cảm thấy mình nghèo đi, những kẻ khác sẽ tận hưởng nguồn nước mà lẽ chỉ mình cậu được uống đến tận cùng [...] và Yves Frontenac làm sao mà cảm thấy trước được sự kinh hoàng khi đứng trước cửa sổ phòng ngủ vào cái đêm tháng Chín ẩm ướt và êm ả ấy. Yves, bên cửa sổ, đọc lời cầu nguyện buổi tối trước những đỉnh núi nhấp nhô của Bourideys và trước vầng trăng đang lờ lững. Ông mong đợi tất tật, khấn lên tất tật, ngay cả khổ đau, nhưng nỗi xấu hổ vẫn tồn tại sau niềm cảm hứng của ông trong nhiều năm, để duy trì vinh quang của mình bằng sự giả dối. Và ông không lường trước được rằng vở kịch này sẽ được thể hiện từng ngày trên một tờ báo được xuất bản sau một cuộc chiến lớn; ông đành chấp nhận điều đó vì đã không viết gì trong nhiều năm. Và những trang viết kinh khủng này sẽ cứu vãn thể diện; chúng mang vinh quang nhiều hơn cho ông, hơn cả những bài thơ của ông [...]

đến đây, câu chuyện về Mauriac thơ, tiểu thuyết có thể chuyển tiếp sang Le Bloc-notes, Mémoires intérieurs, Ce que je crois, De Gaulle, Mémoires politiques

ps. Quyển Bí ẩn nhà Frontenac dịch chán quá, mỗi khi phải tự dịch, tôi chỉ muốn cắm luôn đầu vào ổ điện. Với tôi thì ngôn ngữ nào cũng gây điên tiết cả thôi, sao tiếng Pháp nó cứ nhiều cái phẩy phẩy trên đầu rồi dấu dấu, đánh máy tra từ nó hóc, mà không tự dịch không tự tra không được vì không phải lúc nào cũng đoán được từ do sự nhang nhác của từ tiếng Anh và tiếng Pháp; khi gõ những đoạn trong ngoặc kép cuối cùng trên, đến vài chữ, tôi nhận ra là tôi đã gõ nó trong một giấc mơ/đọc nó trong một giấc mơ và trong giấc mơ ấy tôi cứ đinh ninh là tỉnh dậy mình phải sửa nên ở đây tôi đã xóa những đoạn đó gõ theo sách in, thay vào là tôi tự dịch mà tôi biết là sẽ phải sửa. Post này sẽ phải sửa nhiều, vì những giới hạn lúc này của tôi với Mauriac, nhưng tôi phải dừng để đi tắm gội, quá nửa đêm rồi; không nghĩ để viết nó mà tôi phải chẻ làm mấy tăng trong một ngày, vì tôi ngủ dậy muộn quá, ham chơi quá; hôm nay tôi đã có một ngày sang chấn các thế hệ, ngồi chơi phỏm với mẹ và cháu trong tiếng nhạc thiền nhà hàng xóm, cùng lúc trong tiếng nhạc vàng của mẹ và một cái loa của đứa cháu bật "phải nhạc remix edm mới vui" và giờ đây là tiếng gào gọi về phòng của mèo 🙂


8.5.25

13 năm

rạng sáng mơ thấy M. đi khỏi chỗ của mình, chỉ còn mình em ở lại. Xung quanh rất nhiều lửa. M. cắt hết tóc và râu để lại, nhìn M. rất trẻ. M. nói 20 năm và bay đi

tỉnh dậy nằm khóc cho đến lúc này và, vẫn có một chút an ủi. Vì được thấy lại M. dù chỉ trong mơ, không phải lúc nào cũng được như vậy đâu, rất lâu rồi. Khoảnh khắc trở về và chia xa vẫn là một, nhưng M. nhớ phải về qua. Nhớ phải về qua

13 năm rồi, EMi sắp 18 tuổi, đã trở thành một cụ mèo trái nết 

7.5.25

Mauriac - La Pharisienne




Người đàn bà đạo đức giả - dịch nhan đề thế này thu hẹp tác phẩm, cầu cho ai đấy dịch lại vì nhiều câu trong này chắc chắn dịch sai, những cái sai quá rõ mà không cần phải tìm đọc nguyên tác; nhiều câu sai khủng khiếp với nhân vật cha đạo, ông cha đạo mà chỉ qua một bức thư cũng có thể nhận định một phụ nữ là Pha-ri-sêu/Pha-ri-si; khái niệm Pha-ri-sêu/Pha-ri-si, chỉ cần biết nó, giá cứ để yên nó nằm ở tên sách thì người đọc từng đọc Mauriac có thể tóm luôn được chủ đề quen thuộc của nhà văn Công giáo rồi. Dẫu quyển sách được in với thứ giấy không thể xấu hơn đen hơn, chữ in không thể mờ hơn khiến tôi vừa đọc vừa đoán, dịch thì sai từ nhan đề và, kinh nghiệm quyển sách cho tôi biết quyển nào ta phải thò dao rọc nhiều quá, lại còn thêm giấy đầu thừa đuôi thẹo thì... rất dễ dính xếp lộn trang hoặc thừa thiếu trang thế nào đấy [quyển của tôi trang 64 và 84 là một, nội dung trang 64 là gì với tôi lúc này... vẫn chưa đọc]... nhưng nó lại là quyển tôi thích nhất trong 4 quyển tôi đọc của Mauriac trong tiếng Việt

có những người chọn Chúa Trời cho mình nhưng, lại rất hoài nghi, không biết Chúa có chọn mình không; thực hành tôn giáo và đức tin hoàn toàn theo ngả giáo lý hình thức thì giống như nô lệ cố hắt bụi vào mắt chủ mình và trả hết phần của mình cho đến xu cuối cùng; phải rất lâu sau người ta mới nhìn thấy tình yêu chân chính, tình yêu mà người ta vẫn tưởng người ta tôn thờ và phụng sự trung thành nhưng thực ra lại không biết [cứ yêu thôi, con đường tự khắc đến bởi các con đường mà người gặp nhau không bao giờ là ngẫu nhiên]

nhưng tôi đâu thích La Pharisienne/The woman of the Pharisees theo hướng một tiểu thuyết màu sắc tôn giáo tâm linh, tôi vô đạo, tôi có tâm linh của riêng tôi [rất nhiều người có tôn giáo và là con người tôn giáo nhưng lại không có tâm linh], nhất là Mauriac, tôi chưa từng nghĩ mình đọc Mauriac theo hướng ấy. Với tôi, chỉ có sự vị văn học, sự biến văn học và đời sống của văn chương thôi. Mauriac với tôi là nhà văn yêu các nhân vật tội lỗi; giáo lý/đạo đức/tu khổ hạnh trong cái nhìn của Mauriac luôn là con đường cho tròn ngắn nhất dễ dàng nhất nên câu chuyện và các nhân vật luôn gây cho người đọc cảm giác khó chịu đựng, khó chịu đựng không lúc này thì lúc khác ngay cả với nhân vật được chấm vì cứ dần dần, từng chiếc cúc tuột khỏi tấm áo đạo đức tưởng như hoàn mỹ, hay, do ảo tưởng dày công dệt nên [có một chi tiết rất hay, cha đạo Caluy thích nhận những đứa trẻ hư vì ông biết chọn chỗ căng lưới, kiên nhẫn theo dấu và không nản chí (hình ảnh "lưới" chắc người nào theo đạo sẽ thấy quen, có câu gì đại ý, Thánh đồ phải trở nên những tay đánh lưới người; tích 4 môn đồ trở thành tay đánh lưới người, lưới người như lưới cá etc.) vì cho rằng chỉ nhận những đứa trẻ cứng đầu bất cần, những đứa trẻ đã hoặc sắp bị cuộc đời xô dạt, thậm chí từ chối Chúa Trời như Jean de Mirbel thì ông sớm hay muộn cũng lùa được con thú nhỏ về nhà và nhờ những con thú đáng được quan tâm ấy, ông sẽ sớm tìm được bản mẫu mình cần, cha đạo nghĩ như vậy, ông muốn chịu trách nhiệm về những đứa trẻ này trước Chúa Trời. Vấn đề ở đây không thuộc về đạo đức, phận sự; mà là sở thích của vị cha đạo. Nhân vật cha đạo Caluy rất sắc, ông có thể trỏ ngay người mẹ kế của nhân vật tôi kể chuyện, bà Brigitte Pian như một cái thùng cá, nhìn vào có thể thấy rõ từng động tác cá quẫy; hay, chỉ một câu trong bức thư đầu tiên, có thể xếp bà mẹ của Jean de Mirbel vào "các bà Pharisienne"]

theo lối nhìn ấy, nếu ai đấy nói Mauriac tàn nhẫn, Mauriac ác, tôi không phủ nhận [lại còn wit chứ]. Với lối nhìn và viết như vậy, con người tội lỗi, sa ngã, chịu đọa cũng hao mòn tâm trí không kém gì những con người trở nên đức hạnh [cũng dễ hiểu sao mà rất nhiều người, như tôi, ấn tượng về hình ảnh người phụ nữ trong các tác phẩm của Mauriac (tìm đi đọc cho vui, thư viện các trường nhiều người chọn làm đề tài này lắm, trên đường tìm kiếm xem có ai nối Mauriac vào Dostoievski hay không, tôi thấy tỉ lệ chọn đề tài người phụ nữ trong văn chương Mauriac nhiều vô kể)], tức là, không phải ngày nào cũng gặp được một đức thánh hiền nhưng, không phải lúc nào cũng xuất hiện một kẻ khiến ta hãi hùng, kinh hoàng về sức méo mó sức đọa của con người [ai từng nói đại ý: việc hành hạ thể xác của kẻ tuyệt dục quyết tâm chế ngự mình là việc của con thú dữ, ý nhỉ]

bài học ở đây là gì :), không can thiệp vào cuộc sống của kẻ khác, bất kể đó là ý nguyện của ai sai khiến, điều này đương nhiên nhiều người coi là thần chú; nhưng, phải thêm nữa :), chớ có dại mở cửa ngó vào cuộc đời thứ hai, thứ ba, thậm chí thứ n của họ [đặc biệt là người ta yêu :), Chúa Trời mong muốn một điều khó là ta yêu thương ngay cả kẻ thù của mình, nhưng thời gian sống nói với ta rằng, điều ấy vẫn dễ chịu hơn nhiều việc được kêu gọi đừng bao giờ căm ghét những kẻ ta yêu]; nhưng tiếp, chớ sợ câu trả lời của những câu hỏi ta luôn tìm kiếm [xin các Đấng tha cho cái mỏ hỗn chỉ biết nói sự thật ngây ngô của con]

ps. nối Mauriac vào Balzac thì rõ rồi, quyển Pharisienne này đặc biệt nhiều Balzac; nhưng cũng ở đây, trong có vài ngày, Lamartine, Fromentin đập vào mắt tôi mấy phát


5.5.25

Balzac - Dostoievski - Mauriac

 Balzac - Dostoievski - Mauriac 


đêm qua trong một đoạn đọc cha đạo và cậu bé 17 tuổi của Mauriac, lúc ấy cảm động cứ sụt sịt không rời sang đoạn khác được. Muốn nối Mauriac vào Dostoievski, không chỉ theo hướng những con người tôn giáo, dù cũng là có Chúa, giữa sự cơ cực vất vưởng của những linh hồn thiếu vắng Chúa và sự hiện hữu của Chúa; mà muốn nối 2 con người vào nhau trong lối nhìn bản tính con người gắn với mệnh cách của họ


nhưng đồng hồ đã chỉ 1 giờ sáng, nếu không ngủ ngay thì ngày mai lưng sẽ đau như trời giáng; thế là buông sách tắt đèn nhẩm thần chú: ngủ đi tú. Nhưng tim không nghỉ, tình chí không nghỉ thì mắt cưỡng chế chỉ là nhắm chứ không ngủ; tham vọng  lúc này còn đòi nối tiếp vào Balzac; đầu nó bắt đầu cò quay, nối Balzac - Dostoievski - Mauriac hay là lấy Mauriac làm trung gian vì Balzac - Dostoievski nối vào nhau trước thì cái nhìn của mình đang tỏ ra cao ngạo đấy :))) [nhưng Dostoievski là độc giả của Balzac mà, cũng có phải cao ngạo gì đâu nhỉ :p]... cứ hình dung những thứ mình sẽ viết thế rồi cũng chìm vào giấc ngủ với đủ mọi câu văn, trang sách mà không biết là mình viết hay đang đọc kẻ khác viết. Không khác gì một cuộc hành xác, bị đeo gông đày ải trong sa mạc


sáng ngồi dậy trên giường, kết cục vẫn là lưng đau như trời giáng, vì nằm nhưng ngủ không được mấy, thận có được nghỉ đâu. Vẫn đau lưng như dự đoán và lại còn không viết được cái mình muốn viết, vì nó qua mất rồi; chỉ tiếc vì đã không làm, lại một lần ngu


muốn viết một mail, để được đọc người khác viết, để được nghe ý người ta nói; nhưng tự thấy phải tự làm tự chịu. Tặc lưỡi lên vườn nhìn cây thì hoa đã héo tàn. Hoa héo hoa tàn rồi tú ạ, hết vị, thôi tú tự cấu chí mình đi :)))

30.4.25

Saigon





đây là 3 quyển tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam, mang đến 3 trạng thái khác nhau cho người đọc

trong đó, Một người Mỹ trầm lặng [thuộc kế hoạch Graham Greene dài của tôi, hiện trong nhà có 5q tiếng Việt, 1q tiếng Anh, và tôi đang chờ thêm] là giai đoạn Mỹ những năm 40 - 50 thế kỷ trước ở VN [Graham Greene đến VN lần đầu khoảng 1942-1943 và gần 10 năm sau mới trở lại]


Ở lưng chừng thời gian, thiên về những dai dẳng hậu chiến, những người Mỹ tham chiến và người dân VN. Quyển này tôi đọc vào khoảng mùa hè 2010; giờ đây, tôi không còn nhớ gì ngoài cảm giác về nó, một văn chương hồi cố tiết chế và ám ảnh, có lúc nó gây trầm cảm như người lính hậu chiến [thi thoảng đọc truyện trinh thám, nếu nhân vật là quân nhân, sẽ bắt gặp cảm giác này về chấn thương tâm lý của họ], có lúc nó lại gây cảm giác cái nhìn xa lạ không còn nhận ra của một người nước ngoài trở lại nơi mình tham chiến


Saigon khó gọi là tiểu thuyết [2 tập, tổng khoảng 1000 trang]. Nó như một truyện dài mang thông điệp hoà giải và thể hiện cái nhìn khách quan của một người kể chuyện muốn người đọc hiểu về các bên trong cuộc chiến, về tình thế lịch sử thế giới và khu vực thời điểm ấy; không nhiều văn chương, từng giai đoạn lịch sử chiến tranh hiện ra chia rõ Saigon thành từng phần theo diễn tiến thời gian và cuộc chiến, từ lúc nhân vật chính Joseph Sherman 15 tuổi, con một thượng nghị sĩ Mỹ đến VN lần đầu, cập cảng Saigon những năm 1920 Pháp thuộc đến khi Joseph ở tuổi 63 với hình ảnh do người vợ thứ 2, nhìn từ trên chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh rời Saigon kết thúc chiến tranh ở VN 30/4/1975: ông vẫn còn ở trong hỗn loạn đám đông tìm đứa cháu ngoại của mình để đưa nó rời Saigon sang Anh; trải qua gần 50 năm gắn bó đời mình vào dòng chảy lịch sử cách mạng VN, từ cuộc chiến trong cái nhìn của một đứa trẻ mới lớn, đến lúc là một phi công giai đoạn Mỹ viện trợ, cố vấn, rồi trở lại VN như một nhà báo nhà nghiên cứu trong giai đoạn Mỹ trực tiếp tham chiến... với những người thân bất đồng quan điểm như ông bố thượng nghị sĩ hay em trai CIA, hay hai con trai đều là lính Mỹ tham chiến, người thì bỏ mạng, người thì sang chấn tâm lý sau khi được phía VN trả lại tự do, còn con gái lai lại là người cán bộ cách mạng 


Saigon của Anthony Grey mạnh về tài/tư liệu lịch sử [viết về các trận đánh như diễn ra trước mắt, có thể vì xuất thân là nhà báo và quá quen thuộc với các cuộc chiến ở TQ] là kết quả của quá trình đào bới rất nhiều nguồn tài/tư liệu; Saigon xuất bản 1982 và phải tận 6-7 năm sau Anthony Grey mới đặt chân VN lần đầu, nên lối thoại trong truyện không thật, tâm lý nhân vật cũng nhẹ tều [tôi đã nói ngay từ đầu là nó không nhiều văn chương]. Có thể dùng nó làm sách cho người mù lịch sử như tôi, tìm kiếm người đọc Saigon ở VN không cho mấy kết quả, trong khi nó được đọc nhiều ở nước ngoài, không chỉ các cựu binh Mỹ [thấy có còm của một người đàn ông Mỹ sn 1950 nói rằng quá nửa các bạn cùng khoá ông đã sang VN tham chiến và quyển sách dù là một tiểu thuyết nhưng đã kể một câu chuyện nhiều sự thật] mà cả những người muốn hiểu về mối quan hệ Mỹ - VN, hiểu về VN và các phong trào cách mạng thế kỷ trước; sách in ở VN năm 1988 do nxb Lý luận nxb Trẻ tpHCM làm, sách giai đoạn í nhiều lỗi, chưa kể Saigon có nhiều chi tiết nhạy cảm chính trị nên nhiều đoạn bị cắt hoặc tự nhiên đang đọc thấy đứt gãy thì tự hiểu kiểm duyệt; thấy bảo sau này đã được dịch lại và người dịch đã viết thêm, sửa chữa một số thông tin rồi in ấn ở hải ngoại dưới tên Trăng huyết


gần đây nhà nhà nói chuyện xem diễu hành kỉ niệm; mẹ tôi là người mấy hôm vừa rồi nói với tôi "ngày này dân Saigon ăn mừng lễ lớn lắm đấy nhỉ" và nhiều người Saigon không như mẹ tôi nghĩ. Tôi đọc Saigon vì đến lúc tôi đọc thôi, mấy ngày trước tôi ngủ mơ mình lại là bộ đội [lần nữa, nữa], một người đàn ông khoảng 4x tuổi, mũ cối ba lô màu bộ đội trên vai, tôi đi rừng lội suối ở một vùng núi trung du phía Bắc để tìm một đứa bé trai 10 tuổi với mong muốn nhận đứa trẻ về nuôi. Trở về từ giấc mơ, trong vô thức cảm nhận rõ mình đang sắp gần kỳ nghỉ lễ 30/4 - 1/5, tôi bốc trúng 2 quyển Saigon của Anthony Grey trong một lần nhìn lướt chỗ sách đập vào mắt, sách đã ở nhà tôi gần 10 năm, tôi đã để nó ở chỗ dễ thấy để đọc sớm [vì tôi cứ nghĩ Saigon là một cái tên sẽ chỉ có Saigon hiện lên thời VNCH, đọc rồi mới biết nó tái hiện cả 50 năm chiến tranh trên đất nước mình] nhưng với sách vở trong nhà hiện nay, tôi lần lữa mãi cho tới hôm qua hôm kia vào đợt nhịn ăn, nhịn ăn thì trí nhớ và đầu óc làm việc tập trung hơn, tôi đọc nó

27.4.25

passion - morality



một quyển của Francois Mauriac đọc 8 năm trước, Người vợ cô đơn, bản dịch Mặc Đỗ https://www.facebook.com/share/1AKZsYTJTD/?mibextid=wwXIfr

đọc xong Sa mạc tình yêu, ai theo dõi chương trình xuất bản của Forma sẽ nhận ra ngay một đối ứng: Giống như là chết của Maupassant, mối quan hệ của một người đàn ông với cả hai mẹ con 'hãy cẩn thận, bạn của tôi, ông sẽ yêu con gái tôi say đắm đấy'; và, Sa mạc tình yêu của Francois Mauriac, mối quan hệ của hai bố con với một người phụ nữ 'người ta có bao giờ nghĩ rằng dục vọng của người cha chính là thứ thường xuyên ngăn cách họ với con trai hơn cả'

bầu không khí của Sa mạc tình yêu giống như nhan đề của nó: sự tra tấn và tuyệt vọng, nếu nói nó gây bức bối, bất lực, tình trạng tự cô lập như muốn thôi sống vì không thể thôi muốn [và, cái mình muốn và thực tế được trao cho...] cũng vẫn là nhẹ [nhưng nó là một câu chuyện có lối nhìn hay về dục vọng con người; cả ba nhân vật trong vòng mối quan hệ đều là những nhân vật hết sức đáng nhớ và đặc biệt văn học, nhất là Maria Cross (cái tên Maria thật đạo, đặt cùng họ cross ư); Mauriac từng khiến tôi choáng ngợp với Therese Déqueyroux của Người vợ cô đơn]; của passion dục vọng tình yêu ham muốn thể xác, của morality ý chí, sự cứu rỗi và tội lỗi [rất tôn giáo giáo lý] - passion và morality, một cặp bất hủ, người có đạo thường gọi đó là nan đề [trong một đoạn, nhân vật người bố - bác sĩ nói với Maria Cross, đại ý: phải tin vào sức mạnh ý chí của mình, tin rằng có khả năng kiểm soát tất tật các con thú hoang trong mình mà đó hoàn toàn không phải con người thật của ta - lời nói như một đơn thuốc bác sĩ kê cho bệnh nhân; nhưng đến đoạn cuối của tiểu thuyết, lần gặp cuối của họ thì nó điển hình cho minh hoạ: bác sĩ không thể nuốt trôi đơn thuốc mình kê]

tất cả đan xen trong ngẫu nhiên kỳ lạ của dòng thời gian mỗi nhân vật, trong tưởng tượng-sự hiểu-sự biết về cái được coi là tình yêu của mỗi người họ, dường như, chúng chưa từng 'đính hôn', dẫu người ta vẫn nghĩ về cùng một yêu-tình yêu; tức thời, sa mạc thình lình hiện ra và, đến cuối cùng, điều duy nhất còn lại là sa mạc

20.4.25

to Marshal


rạng sáng tôi mơ tôi là một người đàn ông gây ra những giọt nước mắt tan vỡ trong mắt bạn gái mình; khó chịu đựng quá, tôi quyết định mở mắt dậy 🤦🏻‍♀️

trong mơ tôi đọc một trang sách ngoại văn, nội dung nó là gì đấy gửi tới Marshal, trong đó nói về một bản nhạc. Vì tò mò bản nhạc ấy nên tôi đi nghe nó, tai nghe đang thút nút 2 lỗ tai thì người phụ nữ của tôi ở đầu kia căn phòng nói nói nói, cô ấy nói trong cố gắng để tôi buộc phải nghe vì tôi biết cô ấy vẫn nói nội dung gói gọn, vẫn, chỉ là: tôi đã đọc cái cô ấy mới viết chưa

rồi chúng tôi cãi nhau, không kiềm chế được nữa, tôi rời bàn, rời trang sách to Marshal đứng dậy vẫn với dây tai nghe lòong thoong trên người nhưng âm thanh đã dừng lại:
- tôi: anh không thể lúc nào cũng đọc cái mà anh không thích chỉ vì anh iêu em và vì em là người viết ra chúng
- cô ấy: anh đang nói, anh đang khẳng định là anh không như trước đây nữa, anh không còn là anh như trước đây nữa
- tôi: ok, có thể, anh đã iêu những thứ em viết, anh iêu em hay, ở chiều ngược lại, em hiểu thế cũng được, nhưng không phải lúc nào cũng... bây giờ... anh *vò tóc trên đầu, quay đi, nhìn cửa sổ*
- cô ấy: còn bây giờ... cái gì
- tôi: anh vẫn iêu em, chỉ là, anh không thích, không thích những gì em viết, không thể đọc em viết... thậm chí, anh không thích em khi anh hiểu anh đang đọc và người viết chúng là em, anh không thể thích nổi người viết ra những gì... rỗng tuếch tẻ ngắt như thế

thế là cô ấy với đôi mắt, khuôn mặt của tất tật những gì vỡ vụn trong trường nhìn của tôi. Khó chịu đựng quá tôi cất tiếng nói trong đầu: mở mắt, mở mắt dậy tú ơi

đứng trước gương trong nhà tắm, tôi nhớ đến câu chuyện không đầu cuối chiều hôm qua; tôi và đứa bé gái 7 tuổi nhìn nốt ruồi trên cánh tay nhau, chỉ ra những nốt ruồi tương đồng của 2 cô cháu. Rồi nó vén bụng bảo con có nốt ruồi ở bụng, cô có không; chị gái tôi ngồi bên nói nó: không được vén hở áo cao thế, nhớ chưa, mình là con gái; đứa trẻ vâng ạ và quay qua tôi, cô có nốt ruồi ở bụng không; tôi cười khì khì bảo hình như không có, nhưng cô đố con có nốt ruồi ở nách như cô :))); nó cũng cười khì khì chạy đi giơ 2 nách trước gương và ngặt nghẽo "không có, con không có ở nách trời ơi"; lúc này bà chị gái tôi lườm nguýt 2 đứa tôi "có làm gì, nốt ruồi ở nách đào hoa"; tôi đang định nói suy nghĩ của mình thì bà í nghe ra điệu bộ tôi tính mỏ hỗn, bà í dập "tao nói sai à, thế không đúng à, mày thử nghĩ mày xem, mày chưa đủ hay sao". Tôi hết nói gì

một cuộc sống khác, tôi là đàn ông phũ như thế sao, là nam hay nữ thì tôi cứ nhất định phải nói đúng điều trong đầu trong tim gan phèo phổi mình ra hay sao, hỡi ôi tú

đầu ngày báo hiệu nực; xuống nhà gặp Loan cãi nhau tiếp. Tôi chỉ nói với Loan mẹ mong đi viện để bị kết án thêm những gì nữa à mà cứ suốt ngày nhắc bệnh viện kêu đau ốm: ung thư 13 năm rồi, cao huyết áp mỡ máu tiểu đường u tuyến giáp rối loạn tuần hoàn máu não, sỏi thận gan nhiễm mỡ, thoát vị đĩa đệm thoái hoá đốt sống lưng, đau thần kinh toạ... thế là Loan chửi tôi vắt nóc con mất dạy phản động các kiểu các kiểu

mới được non nửa ngày đã thấy thêm một ngày nữa bế mạc

18.4.25

Leopardi

không thể không cô độc