24.10.25

Erich Kästner




tên đầy đủ là Emil Erich Kästner, bố của Erich mới tên Emil :). Đúng là Đức, viết cho thiếu nhi cũng rất nghiêm cẩn Đức [ngày nay nghe người Đức hòa âm phối khí và hát lại, nó chuẩn hơn cả bản gốc thuộc về nền văn hóa quốc gia khác, một cái gì đó rất Đức thuộc về các cao độ trường, các âm trầm đanh chắc như các góc vuông nếp gấp nét sắc cạnh]. Trong ảnh thiếu Emil và các nhà thám tử, Cậu bé tí hon; tôi cũng chẳng biết giờ 2 quyển thiếu ấy của tôi ở tủ sách nơi nào

5 quyển Erich Kaestner trong tiếng Việt, tôi thích nhất Ngày tôi còn bé. Đó là một quyển tự truyện, hay bán tự truyện cũng được [khi nhìn lại, một chứng nhân lịch sử cũng có thể hư cấu lịch sử, lịch sử viết lại], vì Erich "kể một chút về tuổi thơ của mình. Chỉ một ít thôi, chứ không phải tất cả" "nếu không thì sẽ thành quyển sách dày cộp mà tôi không ưa. Một quyển sách nặng trĩu như hòn gạch. Mà bàn viết của tôi thì không phải là một lò gạch". Kästner đã không kể tất cả, nhưng cũng đủ để người đọc biết về gia đình ông và thành phố Dresden - nơi ông sinh ra; quyển sách không kể về những thành tích hay cái gì đó to lớn với một cậu bé, mà là những kỉ niệm, sự kiện thường ngày, đôi khi chúng khiến một người đọc người lớn cũng phải suy nghĩ. Từ đó, một giai đoạn lịch sử Đức, thời Erich Kaestner còn là một cậu bé, hiện lên sống động trong cái nhìn của một người trưởng thành vẫn giữ được tâm hồn trẻ thơ nhìn lại thời thơ ấu của mình

"thành phố Dresden không còn nữa. Thành phố đã hoàn toàn biến mất trên mặt đất này rồi, trừ một vài vết tích. Thế chiến thứ hai, trong chỉ một đêm, với chỉ một động tác, đã xóa sạch nó rồi. Hàng mấy trăm năm đã tạo nên vẻ đẹp có một không hai của nó. Chỉ vài tiếng đồng hồ cũng đủ để phù phép cho nó biến đi khỏi mặt đất. Chuyện xảy ra vào ngày 13 tháng 2 năm 1945. Tám trăm máy bay đã thả xuống thành phố nào là bom nổ nào là bom lửa. Và cái còn lại chỉ là một sa mạc. Với một vài đống gạch vụn khổng lồ. Các đống gạch này trông như những con tàu vượt đại dương bị mắc cạn.
Hai năm sau đó tôi có dịp đứng giữa sa mạc vô tận này và không còn nhận ra mình đang đứng ở đâu. Giữa các hòn gạch vỡ, một bảng ghi tên đường nằm chỏng chơ bám đầy bụi. Phố Prager, tôi khó khăn lắm mới đọc được..." [đoạn sau đó, tôi để ở còm, tôi phải làm việc rồi :)]




20.10.25

Gianni Rodari



tác giả viết cho thiếu nhi với chất văn rất Ý, các vấn đề như chiến tranh, độc tài, bất công và bình đẳng, tự do, sự thật... cũng được chất văn Ý hài hước ấy tiếp cận giàu tưởng tưởng, lãng mạn nhưng không kém phần thông minh. Đọc những câu chuyện thiếu nhi của Gianni Rodari không khỏi nghĩ đến một nhà văn Ý Alberto Moravia, bởi tính thông tuệ của câu chuyện được kể

không tìm thấy quyển Cuộc phiêu lưu của chú Hành, với quyển tàu hoả Mũi tên xanh, chắc cho trẻ con đợt sách nào đó mà không nhớ [câu chuyện này làm nghĩ thế giới của Andersen, đến Thế giới đêm của đồ chơi (Dacia Maraini), rồi cả Walter de la Mare]. Dù Cuộc phiêu lưu của chú Hành là quyển được nhiều người biết đến nhất, nhưng câu chuyện mình thích nhất là Gelsomino ở xứ sở nói dối, với con mèo thọt Zoppino [Zoppi - tiếng Ý: thọt]; nhiều người thích chi tiết ông lão hoạ sĩ vẽ gì thì cũng biến ra thành đồ thật, mình thì thích chi tiết giọng hát có thể đánh bật hình vẽ con mèo ra khỏi tường, nhất là con mèo í lại 3 chân vì vẽ dở dang vì nó bị vẽ ở xứ sở gì cũng phải dối trá, một con mèo dùng chân làm bút, có phần xấc xược :))) khi kêu meo meo trong một xứ sở tất tật mèo kêu gâu gâu... gần đây mỗi khi làm bánh, mình lại nhớ đến một câu trong Giữa trời chiếc bánh gatô, đại ý: gì thì gì, sớm hay muộn bánh gatô cũng sẽ đủ cho tất tật loài người, điều đó xảy ra khi người ta làm bánh thay cho làm bom, chế tạo vũ khí 🙂

hôm qua search mới biết, Gianni Rodari có thêm mấy đầu sách nữa trong tiếng Việt và bộ 4 quyển chú Hành, Mũi tên xanh, Gelsomino, bánh gatô tái bản bìa khác

ps. vừa viết vừa tủm tỉm vì nhắc cả Alberto Moravia cả Dacia Maraini 🙂

18.10.25

thế giới Mumi



Bắc Âu mùa đông với mưa tuyết lạnh giá kéo dài, mùa hè với mưa lớn, ngày hạ chí được xem như Giáng sinh của mùa hè [như Phần Lan, ngày hạ chí là ngày lễ lớn thứ hai sau Giáng sinh, là ngày treo quốc kỳ trong số 19 ngày lễ quy định và, là ngày duy nhất được treo quốc kỳ qua đêm. Tove Jansson là người Phần Lan gốc Thụy Điển, viết văn bằng tiếng Thụy Điển là tiếng mẹ đẻ của bà], với những truyện cổ tích, thần thoại... trở thành vùng đất sản sinh ra những tác phẩm huyền ảo như một truyền thống. Tove Jansson xây dựng bộ truyện Mumi với một thế giới thanh bình, cuộc sống nhân bản, không bạo lực giết chóc, những cuộc phiêu lưu khám phá, ngôi nhà mái nhọn của gia đình Mumi trong thung lũng hoa vào mùa hè và trắng toát tuyết phủ vào mùa đông cả nhà Mumi bụng ních đầy lá thông nằm ngủ đông chờ xuân tới - không chỉ là nhà của Mumi Con, Mumi Bố, Mumi Mẹ, mà còn là tổ ấm của rất nhiều cư dân khác trong thung lũng Mumi, Muy Tí Hon, Niisku Em, Niisku Anh, Muikune kẻ lữ hành cô đơn đi lang thang khắp thế giới, cứ tháng Mười Một hằng năm thì đi về phương Nam cho tới ngày đầu tiên của mùa xuân mới trở về gặp Mumi [he he, tôi thích nhân vật này, cùng các hạt giống gieo xuống đất nở ra bầy Hattivatti kì quái không biết phải tả chúng giống sinh vật gì, chỉ biết chúng quái dị dễ thương ha ha ha], Nipsu, Hemuli...

điều tuyệt vời là thế giới Tove Jansson vẽ ra [thực sự vẽ, bà viết văn, vẽ và điêu khắc], các sinh vật đều là những sinh vật tưởng tượng. Mumi mập mạp, trắng muốt, mõm dài tròn tròn, tai bé tí bên trên, chạy 2 chân sau... trông ngộ nghĩnh đáng yêu; Muikune thì nhìn vừa giống hình nộm bù nhìn, lại vừa tà đạo với bộ áo choàng và mũ chóp nhọn, dáng lưng cô đơn lữ hành phiêu bạt, miệng ngậm tẩu hay thổi harmonica... chỉ đơn giản những hình tượng ấy đi vào cuộc sống; đứa trẻ nhìn thấy một sinh vật nào đó dù trong tự nhiên hay trong văn hóa đại chúng, chúng sẽ lấy các đặc điểm của nhân vật trong bộ Mumi để tả 'nhìn da hà mã bóng như Mumi', 'chuột túi chạy giống Nipsu'... [mà đứa trẻ không hề nghĩ, đáng chúng phải nói theo chiều ngược lại. Một cách ngọt ngào đắng, ta phải thừa nhận, đến một lúc nào đấy, con người sẽ nghĩ về các sinh vật tưởng tượng sắc nét, rõ ràng, đặc biệt và thân thiết hơn những sinh vật có thật; có thể vì những gì thực đã ở quá xa, thậm chí, biến mất]

Mumi xuất hiện lần đầu trong tiếng Việt là tập Chiếc mũ của phù thủy, năm 2010. Nhưng thứ tự tác giả viết bộ Mumi là như trong ảnh. Tove Jansson viết bộ Mumi phần đầu là Mumi và trận hồng thủy, năm 1945; ở bản dịch tiếng Việt, cuối Ngày hạ chí nguy hiểm, có một chương bonus tên Trận hồng thủy - đây cũng là tập có nhiều trận nước lớn [không phải biển như tập Gia đình Mumi ở biển phiêu lưu :)]; như Thánh Kinh, sau trận hồng thủy những sinh vật lên thuyền và một thế giới mở ra, tiếp tục


17.10.25

hóc



We need to talk about Kevin - Mình cần nói chuyện về Kevin, tiểu thuyết của nữ nhà văn Lionel Shriver [khi đọc 1/4 và hiểu nôm na tiểu thuyết sẽ được dẫn đi hướng nào, chỉ không ngờ mức độ tang tóc của nó, tôi không cưỡng được tò mò đi tìm ảnh tác giả, để nhìn tác giả, trông tác giả như thế nào] hơn 550 trang khổ to, được viết dưới dạng những bức thư của người vợ Eva gửi cho người chồng quá cố Franklin với trung tâm là Kevin con trai họ - đứa trẻ gây ra vụ thảm sát ở trường học và hơn thế nữa, với một chiếc nỏ. Có thể chia tập thư này thành 3 giai đoạn: trước khi có Kevin, Kevin trước sự vụ 'ngày thứ Năm', Kevin sau 'ngày thứ Năm'. Đối tượng đọc Mình cần nói chuyện về Kevin sẽ rất nhanh chóng chia làm các điểm nhìn, từ đó sẽ đi vào các motif: 1. bản thân đứa trẻ sinh ra đã lệch lạc nhân cách và chỉ cần xúc tác nhỏ để giải thoát con quỷ bên trong nó "thằng bé thiếu một điều gì đó", "nhân chi sơ tính bản thiện hay nhân chi sơ tính bản ác" [tội lỗi, chúng được sinh ra từ tội tổ tông]... chúng luôn là điều tuyệt vời, nhưng khi điều tuyệt vời bị hỏng hóc méo mó thì nó lao thẳng đến chiều quái ác; 2. lỗi thuộc về gia đình, giáo dục sai lầm, thiếu sự quan tâm thực sự, không nhất quán trong giáo dục, kẻ gây ra bi kịch và người hứng chịu bi kịch có khi nào là cùng một người, đứa trẻ là trái tật của một cái cây cuộc sống vẹo vọ...; 3. những cái tử cung lạnh, dv vô thức thì cây ơ hờ có cho trái ngọt...

người sợ sinh con như tôi, nhìn nhận quyển tiểu thuyết như một kịch bản kinh dị; ở đất nước như Mỹ, điều điên rồ gì con người cũng làm được, các thái cực của tự do, hăm hở với lối sống cuồng tất tật khiến những thương tổn bị quăng chao đảo hơn; ngay từ những lá thư đầu tiên, tôi tự hỏi một người phụ nữ chưa có tình chí ý chí làm mẹ, không thích, thờ ơ với con trẻ thì khi sinh một đứa trẻ ra đời, cô ấy lấy gì để trở thành một người mẹ, là một người mẹ quen với việc có đứa trẻ trong cuộc sống gọi mình là mẹ và mình làm các việc hằng ngày diễn tiến để chăm nom đứa trẻ như người ta mặc định là của một người mẹ, đủ không. Ai cũng biết việc làm cha mẹ là tới đâu hay đó, vừa học vừa làm và, tôi nghĩ, đó là cách để trở nên vĩ đại, việc làm cha mẹ quá khủng long trong ý thức của tôi, có thể dùng từ "vĩ đại"... nhưng với thế giới trẻ em của loài người, điều tiên quyết là: vô điều kiện; một đứa trẻ cần tình yêu của loài người nhất khi chúng ít xứng đáng nhất, vô điều kiện. Người ta hay nói một câu điều kiện với trẻ con, trong vô thức: nếu con/cháu hư, bố mẹ/ông bà/mọi người sẽ không yêu con nữa, nếu abc tốt đẹp ngoan giỏi thì xyz yêu... luôn là điều kiện, rất ít người có đủ yêu thương để sống cho đứa trẻ hiểu việc nó đến thế giới này là điều tuyệt vời nhất, nó được yêu thương thuần tuý bởi sự hiện diện của chính nó, không kì vọng, không phải đứa trẻ là khoản đầu tư, cái bảo hiểm, không vì nó là sự nối dài của bộ gene tập tính sinh học bản ngã, không vì gì cả

đứa trẻ Kevin quá thông minh và nhạy cảm [nó quá giống Eva, Eva đọc vị nó bằng sự nhanh nhạy của một người phụ nữ tài giỏi công việc, một người làm chuyên môn và hiểu con người (không như người chồng Franklin bị con trai Kevin dắt mũi, không hiểu nó là không yêu nó, yêu nó mà không hiểu nó thì chưa đủ yêu nó), còn nó luôn bày mọi sự ra trước mắt Eva, kể cả việc thủ dâm, như một sự trình diễn đòi khán giả, một sự hiện diện đòi được khẳng định công nhận con là đứa trẻ của mẹ, hãy nhìn con đi], chính bởi thế, tiểu thuyết đã đi theo hướng, ngay từ đầu, như một thần thoại, đứa trẻ mới chỉ là bào thai nhưng đã có thai kỳ đầy khổ sở với cả nó và người mang nó như một thử thách, mới chỉ là một một sinh linh còn ẵm ngửa đã biết phản ứng lại người sinh ra nó bằng cách không chấp nhận sữa mẹ bởi người mẹ ấy đón con vòng tay đầu đời mà chẳng hề cảm thấy gì "bà chưa từng muốn sinh tôi ra phải không" và theo một cách nào đấy, tất cả những gì nó làm, những trò ác quái đản, ở mức độ ngày càng nghiêm trọng... cũng bởi nó muốn gây sự chú ý, muốn thấy tình yêu của người sinh ra nó, muốn giày vò muốn phá huỷ "con đã giết cả chồng mẹ, cả con gái mẹ"
- con thì sao, con không thấy thương mẹ sao
- mẹ đã thoát khỏi chuyện này hoàn toàn bình an, chẳng phải sao. Không một vết xước
- thật ư... tại sao lại thế
- khi người ta trình diễn trên sân khấu, chẳng ai lại đi bắn khán giả

kết chuyện ứng với, một đứa trẻ cần tình yêu của chúng ta nhất khi nó ít xứng đáng nhất. Nó làm nhớ đến một phiên toà xét xử một kẻ giết người hàng loạt, nhiều năm giam giữ, xét hỏi thẩm vấn và hầu toà, kẻ giết người vẫn không khai ra nơi giấu thi thể của một trong những nạn nhân và gia đình nạn nhân này suốt nhiều năm phải chịu đựng nỗi đau không ai có thể san sẻ được; đến một ngày, trong phiên toà, sau khi kẻ giết người hàng loạt trong thế đứng của bị cáo vẫn nhất định từ chối không trả lời câu hỏi liên quan đến thi thể của cô gái - nạn nhân duy nhất chưa được tìm thấy trong vụ án; ở một hàng ghế, bố hay ông của cô gái [tôi không nhớ rõ] ngồi cùng cả gia đình mắt đỏ hoe, người đàn ông lớn tuổi bình tĩnh nói to, chậm, chân thành: dù cậu đã làm gì con bé, dù lúc này con bé của chúng tôi ở đâu... tôi cũng tha thứ cho cậu, con trai ạ, tôi tha thứ cho cậu; kẻ giết người, hung thủ, kẻ gây ra tội ác, hay bất cứ danh từ gì để trỏ vào hắn, chính khi nghe được câu nói của người đàn ông lớn tuổi mới gục xuống khóc "tôi xin lỗi". Đói tình thương con người trong hình thức sự tha thứ. Kevin đến những trang cuối cùng khi thằng bé hiểu ra rằng, dù nó là một kẻ giết người, một đứa trẻ quái đản, một kẻ tù tội, kẻ đã phá huỷ mẹ nó tới cùng thì mẹ nó vẫn đến thăm nó, vẫn yêu nó theo cách của bà ấy, vẫn như cuộc chiến ngầm làm đau đớn nhau của hai mẹ con nhưng không phải để bóc trần nhau trong phán xét quy tội quy trách nhiệm, mà để hiểu nhau, để yêu thương nhau lại, từ đầu; Eva hỏi tại sao, đã 2 năm trôi qua, tại sao Kevin lại giết 11 người, ngay cả bố và em gái của mình. Kevin nói "con từng nghĩ con biết... giờ, con cũng không chắc", câu "con xin lỗi" nghẹn lại và Eva nói "mẹ cũng xin lỗi. Mẹ xin lỗi". Bản án dành cho đứa trẻ và cả quyển tiểu thuyết là luyện ngục luận tội, bản án dành cho người mẹ. Sự trừng phạt chung cuộc kép

quyển tiểu thuyết rất dễ được chọn để làm thành phim và đúng là có phim thật, như text bìa sau viết như vậy, tôi chưa tìm hiểu. Làm bìa sách như thế này thì độc giả văn chương ai dám mở ra đọc, phí hoài một đầu sách hay; tôi luôn nghĩ một bìa sách đẹp là chỉ cần các chữ cái cung cấp thông tin tên sách, tác giả... đấy là vẻ đẹp thuần tuý của chữ, ngôn ngữ ở mặt tiền một quyển sách; nếu thiết kế một bìa sách xấu được cỡ như thế này, các vị có dán đủ thứ mác lên... quyển sách vẫn không tìm được độc giả. Gần đây, có một đơn vị xuất bản đã công bố bản quyền We need to talk about Kevin, tôi mới giật mình hình như trong nhà có Mình cần nói chuyện về Kevin, quyển sách nằm trong lô sách bạn A. nhờ thanh lý, miễn đạt target, sách gì còn lại thì tuỳ tôi xử lý; quyển sách đơn giản là không ai hỏi đến, tôi cũng chỉ nhớ mang máng nó giải Orange - một giải thưởng cho sáng tác đầu tay hay gì đó của nữ tác giả mới... mà tôi hay đọc trúng, nhưng bìa nó tệ hại quá nên tôi cứ xếp trong hộc đàn piano đã, không biết ngày nào mới sờ tới; nhưng tự nhiên đã xuất bản rồi, sao đơn vị xuất bản mới kia lại làm lại, mua bản quyền các thứ... nên tôi mới đi lục quyển sách, ra là đã 5 năm hết hạn bản quyền cũ... nên tôi tò mò đọc luôn, đọc để không còn bận tâm nó có xứng để được làm lại hay không. Xứng đáng. Làm lại có diện mạo xứng đáng hơn, cũng xứng với tồn tại một quyển sách. Pamuk khi được hỏi Ông viết cho ai; Pamuk trả lời có một ý, đại ý: hai trăm năm nữa, trong số những sách hiện nay, có lẽ chỉ có năm cuốn sống sót được, niềm tin rằng sách của mình sẽ có vai trò gì đó trong tương lai là một trong những điều thôi thúc Pamuk tiếp tục viết, không muốn nói đó là niềm an ủi duy nhất để vui sống. Vậy nếu một quyển sách tồn tại vì nó xứng đáng, ít nhất hãy cho nó một diện mạo xứng để kể câu chuyện, để tìm được người nghe câu chuyện, đọc câu chuyện

12.10.25

into the wild into thin air



một bản dịch nữa cho Into thin air. Tại thời điểm viết về Tan biến https://www.facebook.com/share/14L6x2aGsWN/?mibextid=wwXIfr, 9 năm trước, tôi đã leo 3 ngọn núi, giờ đây đã giã từ leo núi được gần 2 năm, hình như dừng ở con số 7 ngọn núi. Hôm qua đọc bản dịch mới Into thin air, do một đơn vị xuất bản mới làm, tôi đọc nó vì thuần tuý thích những bộ môn, khám phá mạo hiểm; cũng như thích Jon Krakauer - tác giả của Into the wild, Into thin air... ngoài là một nhà báo, ông còn là một người leo núi cự phách; các tác phẩm của ông phần lớn đều liên quan đến leo núi mạo hiểm, khám phá thiên nhiên hoang dã, sinh tồn trong hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt; người đọc đến với những trang viết chủ đề này đều bị cuốn hút bởi những trải nghiệm chân thực và bi tráng trong thiên nhiên, để thêm một lần nữa hiểu thăm thẳm khôn cùng của thiên nhiên, hay, số phận con người trước sự hùng vĩ của tạo hoá [nếu ngày nào đó, Alex Honnold - dân rock climbing tôi theo dõi, anh ta ra sách hay gì đó, tôi cũng sẽ đọc thôi :); một đêm gần đây khi nhìn tay Xù đàn guitar, tôi hỏi các đầu ngón tay trái của em chai chưa, Xù bảo chưa ạ em không biết, tôi cầm lấy chúng cười bảo âu kê chưa chai đâu chỉ sần cứng và mờ vân như dân leo núi đá thôi]. Đến tận bây giờ, tôi cũng chưa bao giờ có ý nghĩ mình sẽ tham gia đoàn leo núi Everest - vì ý nghĩ về dục vọng ấy, phải đủ điên rồ và hoàn toàn mất trí

sáng nay tôi đọc được bài viết đăng công khai của một anh bạn ngày xưa học cùng lớp vẽ, khoảng 10 năm gần đây anh thành lập một đơn vị chuyên tổ chức các giải chạy; post hôm nay anh kể về cuộc tìm kiếm bạn trẻ sn 92-93 người HP mà mấy tháng trước báo chí đăng thông tin bạn mất tích trong rừng CP, có lẽ bây giờ khi sự việc đau lòng lắng xuống thì anh ấy mới kể chi tiết cuộc tìm kiếm. Nó làm tôi nghĩ đến hành trình của người bỏ lại tất cả để into the wild, hành trình của người đi theo dấu đi tìm lại. Những người dân tộc H'mông, người Dao... làm công việc porter dẫn đường cho chúng tôi leo núi, hay vào rừng tìm kiếm người, vẽ các cung đường chạy xuyên rừng... chính là những người chúng tôi luôn biết ơn trong hành trình đi để biết rừng, biết một ngọn núi cao ở ngay phía trên kia thôi là như thế nào; ở cuộc chinh phục đỉnh Everest, đó chính là người Sherpa - với tôi, đó luôn là một tộc người bí ẩn gắn với năng lực phi thường trên đỉnh Himalaya



there are many shades in the danger of adventures and gales, and it is only now and then that there appears on the face of facts a sinister violence of intention - that indefinable something which forces it upon the mind and the heart of a man, that this complication of accidents or these elemental furies are coming at him with a purpose of malice, with a strength beyond control, with an unbridled cruelty that means to tear out of him his hope and fear, the pain of his fatigue and the longing for rest: which means to smash, to destroy, to annihilate all he has seen, known, loved, enjoyed, or hated; all that is priceless and necessary - the sunshine, the memories, the future; which means to sweep the whole precious world utterly away from his sight by the simple and appalling act of taking his life
[JC - Lord Jim]


11.10.25

từ phỏng vấn



hai quyển sách trong ảnh đều là tập hợp phỏng vấn các nhà văn. Thế giới là một cuốn sách mở, xuất bản khoảng 16 năm trước, tôi đọc nó 15 năm trước, quãng thời gian như vậy chính là cái phải mở lại nó hôm nay; tí nữa quay lại lý do; tác giả của nó là Lévai Balázs [tên người Hung mang đến nỗi hoang mang khi viết, ta viết đã đúng chưa :))] - xuất phát phỏng vấn các nhà văn đương đại trên truyền hình, sau đó mới in thành sách. Còn Không thể sống mà không viết là của nhiều tác giả phỏng vấn các nhà văn, đa số được đăng trên The Paris Review, có cuộc phỏng vấn diễn ra ngay năm, trước khi tác giả được trao Nobel, cũng có khi, chỉ 4 tháng sau cuộc phỏng vấn, nhà văn tự tử [như Sylvia Plath là cuộc phỏng vấn duy nhất không nằm trong The Paris Review, cuộc phỏng vấn tháng 10/1962, cách đây 63 năm, và 4 tháng sau đó, Sylvia tìm đến cái chết như bắt kịp nó], hay, có cuộc phỏng vấn thật đặc biệt, dịch giả được nhà văn lựa chọn chính là người phỏng vấn nhà văn [Italo Calvino]... quyển Không thể sống mà không viết, xuất bản 6 năm trước, gần đây tôi mới cầm trên tay, tiểu iêu cầm qua nhà, tôi nghĩ nó trong tiêu chí của tôi giờ đây là sách đọc 1 lần nên mở mục lục ra nhìn và tặc lưỡi bảo "để chị cầm mấy hôm" [vậy nhưng 1-2 ngày tôi mới đọc 1 bài phỏng vấn tác giả, dù còn thích hay không thích họ, ở đó vẫn luôn có những gợi ý đọc và những điểm nhìn khác khác nữa]

từ phỏng vấn nhà văn, đôi khi thấy lại niềm yêu thích của mình với nhà văn vẫn như hôm nào, có lúc hân hoan bởi nỗi nhà văn mình thích cũng thích những tác giả mình thích [hay khi họ chê nhà văn mình thích, cũng là cái vui để nghe], hay, thậm chí, thấy ghét con người nhà văn và chột dạ nhìn lại một mối tình đã qua tưởng vẫn còn vương vấn "đây có đúng là nhà văn mình từng đọc và thích không"... cũng có khi chỉ là một cảm giác bàng quan "chẳng trách từ rất lâu rồi đã không còn nhìn đến ông ta [nhà văn]...

trong hai quyển phỏng vấn nhà văn, có hai tác giả cùng xuất hiện. Đó chính là vấn đề của tôi, một người đọc. Paul Auster tôi giữ nguyên trạng thái, dù lúc này so với 10-15 năm trước, đã rất khác về yêu thích. Còn Orhan Pamuk thì không như 15 năm trước đọc Thế giới là một cuốn sách mở, cuộc phỏng vấn diễn ra khoảng 2003. Pamuk trả lời phỏng vấn ở tập Không thể sống mà không viết, khoảng 2005, gần đây tôi mới đọc, trong những dòng đầu tiên, tình cảm của tôi hiện ra rõ nhất, mình không thể chịu được con người này, một người đàn ông hèn, đố kỵ, tính toán quá; đúng như ông ấy tự nhận rằng khi trả lời phỏng vấn, ông ấy luôn nói những lời ngớ ngẩn; đúng, tôi không chỉ thấy ngớ ngẩn, mà còn thấy một sự quay lưng với tình yêu mà tôi cảm nhận khi ông viết Istanbul, hay, quyển tiểu thuyết tôi thích nhất của Pamuk là Tuyết, hoá ra lại là quyển đặc chính trị trong tính toán của nhà văn... lúc ấy tôi chỉ muốn sút hết sách của Orhan Pamuk ra khỏi nhà - một người Thổ tự nhận mình không giỏi nói tiếng Thổ. Chính vì lẽ ấy, tôi bắt đầu đi tìm lại ở góc sách đã đọc cách đây 15 năm ra quyển Thế giới là một cuốn sách mở, với ý nghĩ ban đầu, mình phải kiểm chứng lại bài phỏng vấn ngày xưa mình đọc, nếu hồi ấy mình khó chịu với con người này, chắc chắn mình đã không đọc tiếp các tác phẩm của ông ta... nhưng tôi từ bỏ ý nghĩ đọc lại, không phải vì sợ cảm giác thích - không thích một nhà văn, mà là tôi không nghĩ mình đối diện được với ý nghĩ: làm sao tôi đã từng ngớ ngẩn đi thích nổi [sorry; tuy nhiên, để sút sách của Orhan Pamuk đi, tôi cũng phải đọc lại một ít, tôi vẫn tiếc Istanbul đấy]

không như trường hợp Orhan Pamuk, có những cuộc phỏng vấn, như với Carlos Fuentes, dù mới chỉ đọc 1 quyển của tác giả xuất hiện trong tiếng Việt, nhưng sau mỗi câu trả lời phỏng vấn, lại tiếp tục ý nghĩ, mình sẽ để ý tác giả này. Hay, như Toni Morrison và Sylvia Plath, hoá ra một khía cạnh mới, giờ mới thấy ở họ, đó là những người phụ nữ đặc biệt nghiêm túc, họ kiểm soát tốt cả điều họ quyết định làm trong cuộc sống chứ không chỉ cảm xúc khi viết dẫu khi viết họ để mình được trôi được dẫn dắt bởi chính những gì đang được viết ra; và Italo Calvino của tôi cũng vậy, hoá ra con người ông, không chỉ kiểu nhà văn, rất tỉ mỉ, trọng cấu trúc, kiểm soát tốt. Hay, Chinua Achebe lại nhiều mặc cảm, cái mặc cảm ám cả vào cái nhìn của ông với tác phẩm của nhà văn khác, như cách ông hiểu Conrad chẳng hạn. Rồi thì, Ted Hughes hiện ra có thể nói, mang đến ý nghĩ: con người này hẳn là mặt trời duy nhất trong mắt người phụ nữ yêu ông ta, một người đàn ông sát gái; nhưng ngay sau đó, lại thấy khía cạnh thường thường cả ở tư duy viết và cuộc sống con người, đó là kiểu nhà thơ, một người thợ viết, không phải hoa của trời, dù khi nhắc đến động vật hay các loài chim, ở đó lại xuất hiện một nhà thơ, một con người khác hẳn; con người ý niệm như thế này, thật nguy hiểm với phụ nữ 🙂... Người gây hứng thú, tò mò với tôi nhất, là Harold Pinter kịch kịch kịch, không phải xuất phát nhằm vào một điều tuyệt vời nào đó ở những gì ông viết, mà bởi, diễn ngôn thường thường như thế này thì khi viết có hay không, tò mò quá

quyển màu đỏ do Phan Triều Hải tuyển chọn và dịch, quyển sách không biết có được biên tập không, nhiều lỗi đáng kinh ngạc, đến mức Melville xuất hiện trong sách độ 5-6 lần thì chỉ duy nhất 1 lần được viết đúng, chưa kể một loạt tên tác giả tác phẩm bị để sai, lỗi typo, thừa từ lặp từ, sai chính tả... thôi thôi thôi thôi, không liệt kê hết nổi. Đó là nỗi bất an thường thấy và đáng lý tôi không thể bất ngờ nếu ngay từ đầu tôi nhìn thấy ngoài bìa và biết đây là sản phẩm của NXB HNV không liên kết xuất bản với đơn vị nào khác [đến đây, tôi đi tìm tiếp mấy số Chuyên đề mùa... Viết và đọc, để sút đi :)))]

26.9.25

atmosphere



trinh thám Bắc Âu với Thuỵ Điển, Na Uy hay Iceland [một tác giả Iceland với 2 đầu được dịch, cả 2 đều tuyệt vời: Bụi lý chua máu, Vết bớt màu cà phê sữa] thì chắc không lạ gì; còn Đan Mạch là vùng đất lạ lẫm với tôi. Không biết vì lẽ gì, Bắc Âu lại thành mảnh đất màu mỡ tạo nên những tác giả trinh thám hiện đại nổi bật như hiện nay

Cô gái trong lồng có tiết tấu bình thường so với trinh thám Bắc Âu nổi tiếng chậm, chính vì tính bình bình ấy mà nó không có cao trào. So với những tác giả trinh thám Bắc Âu tôi từng đọc thì Jussi Adler-Olsen cũng không mạnh đi sâu tâm lý nhân vật; điều này chính là yếu tố bản địa của trinh thám Bắc Âu, cho dẫu nhân vật phụ hay một nhân vật chơ lơ, họ cũng được tác giả viết tỉa đậm nét; ở đây thì không. Với dân đọc trinh thám thì đi khoảng 1/3 - 1/2 câu chuyện Cô gái trong lồng là đã phán đoán được hung thủ rồi, nên việc viết có chiều sâu rất cần thiết, nếu không, không giữ được chân người mở sách ra đọc

ở đây, cái giữ chân là cô gái bị nhốt trong phòng áp suất, chắc hẳn nhiều người nghĩ, với lượng trang sách còn phía sau nhiều như thế thì cô gái ấy sẽ như Alex của Pierre Laimatre chứ, hay sẽ là motif thông thường bị bạo hành, lạm dụng rồi phản đòn bằng tấn công và sẽ có vài chương truy đuổi sát nút ở kết chuyện... kịch bản nào cũng có thể xảy ra với truyện trinh thám, chính thế nó làm nên sức hút. Ở Cô gái trong lồng thì đó là phòng áp suất. Người ta sẽ phải chịu đựng tra tấn và trải qua những gì trong phòng áp suất trong 5 năm liền nhau, mỗi năm tăng lên 1 atmosphere với năm thì sống hoàn toàn trong bóng tối, năm lại ánh sáng đèn cao áp luôn luôn, năm thì bóng đèn chớp nháy không ngừng... không chỉ là cảm giác cô độc, có lẽ, tưởng là mình không còn ở đây nữa; tự kết liễu mình cũng là một thứ xa vời vì răng không còn đủ sắc, da thịt không còn đủ nhiều để có thể tự cắn cổ tay mình mà chết cho giải thoát - đó là một cái chết được lựa chọn dịu dàng nhất có thể có trong hoàn cảnh, thay vì, bị nổ tung trong đau đớn vì phòng áp suất được trả về áp suất bình thường trong một công tắc lệnh đột ngột
...
đây là mở màn series Hồ sơ đơn vị Q với nhân vật điều tra Carl Morck và đồng nghiệp. Mở màn của Carl ở Cô gái trong lồng cũng rất đặc biệt, đó cũng chính là vụ án mà tôi muốn được đọc, không biết có lúc nào quay lại không: ai mà ngờ trong lúc 3 thanh tra cảnh sát đang trong bộ đồ liền màu trắng đi đến hiện trường vụ án một ông lão bị đinh găm vào não từ một súng bắn đinh bỏ lại hiện trường thì 3 thanh tra cảnh sát bị nã đạn cự ly gần, trong cùng phòng, 1 người tử vong 1 người liệt vĩnh viễn và 1 người chính là Carl bị thương kèm thương tổn tâm lý 'nếu mình phản ứng nhanh hơn thì mọi chuyện đã khác' 'nếu người chết hay bị nằm một chỗ vĩnh viễn cả đời là mình... thì có phải dễ chịu đựng hơn'... đây chính là vụ án mà tôi chờ ở series này, nếu nó được viết. Ông lão tử vong là người thế nào, là mắt xích của cái gì, dẫn đến cái gì... để khiến một nhóm quay lại hiện trường vụ án [hung thủ quay lại hiện trường vụ án vốn là việc luôn khiến con mắt người đọc trinh thám không thể ngừng xoáy vào, chưa nói đến những gì người làm án thực sự tóm bắt lấy... luôn có gì đó chờ được mở ra khiến nhịp tim đập đánh trống] sẵn sàng tấn công trực diện cự ly gần không dè chừng 3 thanh tra cảnh sát đang làm công tác hiện trường
...

22.9.25

nghi lễ

 

Cú săn đêm là phần nằm ngay sau Tôi du hành một mình https://www.facebook.com/share/18tTkJj516/?mibextid=wwXIfr trong series về 2 nhân vật điều tra phá án Holger Munch và Mia Kruger. Phần 1 của series gây cho tôi không ít thất vọng trong địa hạt trinh thám Bắc Âu, nhưng như tôi từng nói, phần đầu phẽo là bình thường, càng về sau tác giả có thể vào mạch của mình sẽ càng viết lên tay, nên hôm vừa rồi trời lạnh, tôi thèm cảm giác nằm đọc trinh thám, tôi đã thử phần tiếp theo của Im travelling solo, nhầm, đấy là tên album ảnh của một người bạn :))), tên đúng là Im travelling alone 😛 là The owl always hunts at night - Cú săn đêm; trong văn hoá đại chúng, cú thường gắn với điềm báo cái chết, như Tiếng cú kêu của Patricia Highsmith chẳng hạn, còn cú ở truyện của Samuel Bjork thì lại gắn với người cú - một nghi lễ hiến tế của giáo phái, thiên về thuật hồi sinh/triệu hồi

phần này ngay 2 trang mở đầu trước khi vào truyện đã gây cho tôi hoang mang, thôi bỏ đi chứ đọc làm sao được, ai lại viết tiểu thuyết kiểu này. Nhưng con mèo trết vì tò mò trong tôi đã dấn tiếp chương đầu tiên của truyện và nghĩ trong đầu, hy vọng thủ phạm không phải đứa bé trai bị gắn lông cú lên người năm nào, chứ không thì mình tuyệt lộ đọc trinh thám vì thất vọng. Câu chuyện của Cú hay hơn Du hành một mình, nó cũng tạo tò mò lớn với người đọc để tiếp tục theo đuổi series vì mở ra tuyến truyện liên quan đến cái chết của chị gái song sinh với Mia từ sớm và có thể biết ngay nó sẽ không được giải quyết ở phần 2 này. Nửa đầu Cú đọc thấy Samuel Bjork viết Cú tốt hơn hẳn Du hành một mình, nhưng nửa sau lại làm tôi nhìn trần nhà với ý nghĩ, đây chắc là của nữ viết chứ sao mà nam viết được vì nó giống tư duy của nữ giới viết trinh thám, quá lạm dụng trang điểm, bôi trát thái quá thành ra mất nét mất cái đẹp tự nhiên của câu chuyện, tung hoả mù quá nhiều, tạo quá nhiều điểm nhấn nên thành không còn điểm nhấn nào. Rất nhiều tình tiết tạo ra rồi để không, làm tôi lại nghĩ thế này có phần 3 thì mình lại phải đọc để kiểm chứng xem Samuel viết để đấy hay sẽ dùng nó làm chi tiết cho phần sau; đồng thời, nhiều chi tiết hay thì lại bị bỏ qua không khai thác, tạo ra cho có [là người dễ bị thu hút vào những giáo phái, thần bí, bí tích... nếu câu chuyện của Cú được viết sâu về các giáo phái, nhóm kín tôn thờ những nghi lễ thần bí... hay, những chi tiết như một nhóm nhỏ chỉ độ vài người bỏ tiền đấu giá để được xem trực tiếp trên đường truyền riêng những nghi lễ hay những nội dung "kín"... được viết sâu hơn, có lẽ Cú đã trở thành một quyển trinh thám có điểm nhấn]

đọc trinh thám Bắc Âu của Samuel Bjork viết, có thể nghĩ, có lẽ phong cách sống Bắc Âu là an nhàn chậm rãi nhất thế giới thật [có thể do khí hậu của họ, một truyện nào đấy của Henning Mankell, người phụ nữ bỏ chồng và con đi, chỉ bởi nơi họ ở, cứ âm u quanh năm, cô ấy không chịu nổi sự uể oải chậm chạp tăm tối lê thê ảm đạm ấy của đất trời]; chứ sao mà mạch tư duy và làm việc của các nhân vật điều tra phá án lại thong dong luẩn quẩn bát nháo thế nhỉ. Khi đọc đến chi tiết Mia Kruger ở Cú đi một mình đến một địa điểm để kiểm chứng nghi ngờ, linh cảm của mình mà, lại không mang súng; tôi muốn quăng cbn quyển Cú đi vì... bực vì phi lý, ở Du hành chính vì lỗi này mà tôi thấy bí bách với người tạo ra nhân vật Mia thì ở Cú, lại lỗi này

ps. hoá ra bây giờ người ta không dùng lễ kiên tín nữa, người ta dùng lễ truyền tin. Bản dịch Cú dùng lễ kiên tín 🙂. Mỗi lần nhìn Bjork tôi đều nghĩ đến cô ca sĩ nghệ danh Bjork, không biết giờ cô ấy còn hát không nhỉ, khéo phải 10 năm rồi tôi không nghe một bài nào của cô ấy 


14.9.25

blue bird



ngày xưa mua tập truyện ngắn Đôi chim xanh, Huỳnh Phan Anh dịch; không hiểu sao cứ nhớ là Con chim xanh và đinh ninh HPA dịch Con chim xanh của Maurice Maeterlinck, lấy tên truyện làm tên tập truyện tuyển dịch. Nên nhìn thấy Con chim xanh của MM bản cũ là tặc lưỡi, không cần mua. Đến một ngày sờ vào tập truyện ngắn HPA dịch, mới nhìn ra Đôi chim xanh chứ không phải Con chim xanh và không có MM trong số các tác giả; mở ra đọc thì đúng, Đôi chim xanh là truyện ngắn của D. H. Lawrence [chả nhẽ vì D chấm H chấm mà mình phải lướt lên trên sửa HPA với MM thành H chấm P chấm etc. à, chứ chưa bao giờ thấy D. H. Lawrence được hiện ra kiểu khác cả]. Thế nên phải mua Con chim xanh bản mới, tiện mua một lần nào đấy sau đó

rồi hôm nay được tặng Con chim xanh hạnh phúc "vì tú có vẻ để ý dịch giả Nguyễn Thành Nhân, anh ấy mất rồi đấy" [tôi biết tôi biết]. Đây là truyện dài/truyện kể do Georgette Leblanc chuyển thể từ kịch Con chim xanh của MM, sau khoảng 5 năm MM viết vở kịch thì phải [nhìn Leblanc quen không :) Georgette Leblanc là em gái của Maurice Leblanc (cái tên này chắc quen với dân trinh thám, tôi từng có mỗi một quyển của Maurice Leblanc thôi, đẩy đi lâu rồi, định viết tắt thành ML mà thồi thồi thồi thồi; thế nào mà 2 Maurice thì 1 được viết tắt, 1 lại không :p)]. Giai đoạn GL chuyển kịch Con chim xanh của MM sang thành truyện dài, mối quan hệ của họ đã không còn nồng thắm rồi; giai đoạn đầu, lại rất dài, họ sống cùng nhau bất chấp xã hội và giáo lý lúc đó, tại nơi ở của họ, sẽ có một nhân vật hay lui tới, Octave Mirbeau [từng xuất hiện trong tiếng Việt quyển Kiếp đi ở]
...
quyển Con chim xanh hạnh phúc, tôi chưa đọc luôn lúc này; nhưng ngoài bìa, dưới tên Georgette Leblanc có để Madame Maurice Maeterlinck, tay gấp nói "bà là chị của nhà văn Maurice Leblance"... "bà kết hôn với tác gia người Bỉ Maurice Maeterlinck"... sai cả thông tin [hay tôi nhớ nhầm] cả lỗi typo. Là em gái và, GL và MM không lấy nhau, sống chung [do GL không thể ly hôn người chồng lúc đó] và chia tay sau quãng 2 mấy năm gắn bó [sau đó họ đến với những mối quan hệ khác, MM thì đánh dấu bằng gặp gỡ một diễn viên trong lúc tập kịch, về sau lấy diễn viên (rất trẻ) đó; cũng dễ hiểu]
...

ps. viết có vài chữ buôn chuyện vớ vẩn mà đã lại gần 11 giờ đêm. Quá nản 🤦‍♀️

12.9.25

Phan Du - một lối nhìn



không giống như biên khảo Mộng Kinh Sư, tôi đọc trở đi trở lại nhiều lần chưa lần nào đi qua được già nửa, mãi 2 tuần trước tôi mới đi được hết; trong khi bài phỏng vấn Phan Du ở cuối Mộng Kinh Sư, ấn bản bìa cứng của Tao Đàn làm thời kỳ đầu "bản đặc biệt" thì tôi lại đặc biệt thích; có gì đó trong văn nói viết của Phan Du làm hình ảnh dù bắt chợp cũng hiển hiện trước mắt người đọc [như đoạn phỏng vấn về đôi mắt mở lớn, trong sáng ẩn sau những cành lan Tố Tâm; hay sự việc Phan Du bị đâm thủng bụng trong một cuộc đánh lộn... tất tật sẽ gặp lại trong các truyện ngắn của ông]; đó có thể là một bắt quyết, xoáy và chớp vào đúng chi tiết, chỉ cần thế, dù nhỏ, chính vì nhỏ, mà sự tỉ mỉ làm nên cái khiến người đọc dừng chân; thế nên, cầm đến bản bìa cứng Mộng Kinh Sư, lần nào tôi cũng giở đến cuối hẳn để đọc bài phỏng vấn Phan Du ở Sài Gòn năm 1964 do một người tên Lê Phương Chi thực hiện [giở luôn đến cuối, vì như thế nhanh, cốt là đọc nó, đó là phần thưởng vì, vẫn có thể cầm lại Mộng Kinh Sư, cố đọc :p; thế cho nên, dù không thích sách bìa cứng, đã muốn đẩy đi, nhưng cuối cùng lại thấy tiếc, tiếc bài phỏng vấn in ở cuối quyển bìa cứng mà bìa mềm không có]. Cả một công trình biên khảo như thế, đọc xong tôi chỉ thích có 2 chương đầu về Linh Mụ tự và Phú Xuân - Di chí thiên di dinh phủ về Nam của Tiên Chúa Nguyễn Hoàng [có thể vì đọc đi đọc lại 2 chương này nhiều và, cũng có thể, với tôi, chúng dễ hiểu]; đóng tập biên khảo lại, còn tồn đúng một tò mò thuần trẻ con rồ dại thiển cận: Tống Thị ấy, có cách nào để biết được dung nhan bà ấy không, với tôi mà nói, phụ nữ tôi chỉ quan tâm xinh đẹp thế nào, cỡ nào mà gây điên đảo lòng người chốn binh đao

thì truyện ngắn Phan Du lại đặc biệt được tôi yêu thích. Văn chương có thể không nói gì về người viết ra chúng, nhưng cũng có thể nói rất nhiều và, chỉ thông qua những câu văn, chi tiết tơ mành mành nhưng không biết bằng cách nào, cái cảm tính bén nhạy của nhà văn gây cho người đọc một xác quyết bén nhạy tức thì, mang tính thời điểm, ngay khi ấy ngay khi ấy; người đọc văn chương vì thế cũng tự cho mình quyền thích con người tác giả nên đọc, hay, không thích con người tác giả nên không đọc, hay, thích đọc văn của tác giả nhưng ghét tác giả cay đắng và, đương nhiên có cả chiều ngược lại. Còn Phan Du, đó là thái độ thuần nhất trong cách làm người, trong cái nhìn. Trong truyện ngắn, Phan Du dùng con mắt bắt chợp các chi tiết nhỏ và xoáy sâu vào đó với sự tỉnh táo tinh quái và, cho dù đến tận câu cuối cùng của truyện, ta vẫn bắt gặp một tia tinh quái để lại, dù câu chuyện chỉ diễn ra trên một đoạn đường ngắn, hay đã trải dài nhiều ngày tháng... ở đó luôn là cái nhìn bùi ngùi với phận người, nỗi u hoài của những gì đã qua đã xa

ở đây, nếu dựng phim, tôi sẽ dựng 2 truyện ngắn, Con rắn hổ và Bàn tay kẻ đói, theo hướng phim màu liêu trai; 2 truyện Hai chậu lan Tố Tâm và Sống gửi thành phim tâm lý xã hội; 3 truyện Miếng ngon bên xác chết, Thuốc cá [Ruốc cá], Khóc thật... thành các tuyến của 4 truyện ngắn trên; Những quả đấm trên một chuyến tàu, Qua cơn thử lửa, Cái vỏ đạn thì nhất định tôi phải ghép vào Hai chậu lan Tố Tâm. Tại sao tôi lại nghĩ đến dựng phim; tôi cũng không rõ, tôi biết gì về phim ảnh đâu; có thể vì cách viết của Phan Du có độ chậm của cân nhắc tỉ mỉ... và như thế, tôi muốn câu chuyện được kể, mà thời này thì, điện ảnh chính là con đường ngắn [dù tôi không thích] để cái muốn ấy diễn ra

truyện ngắn Con mèo đen, đến tận lúc này, sau mấy năm rồi từ lần đầu đọc nó, đến lúc này nhìn lại, tôi vẫn thấy khung cảnh nó dựng ra cho tôi thật quen thuộc, tôi như đứng ở đất Huế trên một mái gác nhìn phố về đêm, xuyên vào một ô cửa, bóng một thiếu nữ thấp thoáng, vào khuông hình rồi lại chớp biến mất, so le với con mèo đen... tôi không nghĩ mình nghĩ cô gái và con mèo đen biến thân cho nhau như trong các truyện liêu trai, giống hồ mượn hình người... chỉ là khung cảnh đó quá quen với tôi, tôi như đã thấy nó từ trước. Giống cảm giác mấy năm trước đọc Trúc Khê Ngô Văn Triện cũng vậy, hình ảnh về bóng cây bóng trăng qua ô bán nguyệt lúc nào cũng cứ lởn vởn trở lại

hôm nay hoàn thành văn bản Phan Du để quên trong máy vì hôm nay là 100 ngày ông cụ hàng xóm. 98-99 ngày trước trong lúc phường kèn hát đám ma cuối một buổi tối phát tang, tôi ngồi trong nhà, cửa đóng, nghe họ hát bài Hò khoan [đến giờ tôi vẫn chưa tìm được lời đầy đủ bài Hò khoan đó, tôi thích thôi] và tôi thấy lại một cảm giác, khung cảnh quen thuộc của vài truyện ngắn Phan Du từng đọc, tôi chỉ nhớ gì đó về khóc thật khóc giả... và đó chính là cảnh cuối Thuốc cá [Ruốc cá] và Khóc thật - 2 truyện ngắn xếp cuối cùng trong tập Hai chậu lan Tố Tâm

để đọc Phan Du nhiều hơn 2 quyển trong ảnh là không dễ, tôi cũng đang phân vân xin mượn đọc. Chờ các đơn vị xuất bản thêm Phan Du thì... mờ mịt, có lẽ vì đó là nhân vật tiền chiến đang chờ người vinh danh dứt khoát hơn nữa [dùng từ "chiêu tuyết" ở đây là sai, nhưng ở một phần nghĩa từ ấy, nó có mặt mạnh]. Đọc đâu đó tôi nhớ mang máng các tác phẩm của Phan Du được gia đình tác giả bàn giao cho một người cháu ở Anh lưu giữ; kể ra nếu cứ không làm [lại] sách về những nhân vật ít người đọc như Phan Du, thì rồi hẳn dần dần cứ mất hình-bóng văn chương một thời

ps. Phan Du là người đầu tiên nói cho tôi biết tên một vùng đất quen thuộc, với tên gọi: đất Thần kinh, qua các truyện ngắn, chứ không phải đến tận biên khảo Mộng Kinh Sư của ông

3.9.25

Arnold Bennett



trước khi Chuyện các bà vợ già, xuất hiện thì Arnold Bennett hiện diện trong tiếng Việt là quyển sách self help ngắn How to live on 24 hours a day - Làm thế nào để sống trọn vẹn 24 giờ mỗi ngày. Sách self help gây nên cho tôi nỗi chán chả buồn nhìn đến, tôi nói chuyện với một bạn sách bảo, giời ơi, Arnold Bennett xuất hiện mở màn trong tiếng Việt thế này thì ai dám đọc đây; đến tôi, tôi cũng chẳng dám sờ tới, dù tôi là kẻ đọc liều mạng. Trước khi mua nó, hẳn 4 quyển, cho tiện đặt sách, tôi đã đọc nó trên gutenberg [khoảng 1 năm nay hay dùng trang này đọc, tra cứu vì dễ dùng]; đọc xong thấy không đến nỗi nào [self help của Anh là thứ hướng đến hành động, cái tạo ra lối sống, không phải các nguyên tắc suông, tạo ra luật/nguyên tắc thì gần với dục vọng/cái muốn; nói theo cách của Georges Bernanos thì các luật không được tạo ra để giữ con người, chính con người giữ luật, giữ luật là ở hành động của con người], mới mua sách giấy, dù hình thức của nó đến giờ vẫn khiến tôi đứng hình, mặt nghệt ra

nửa sau của quyển self help này sẽ cho các gợi ý đọc của Arnold Bennett, đặc biệt là chương 11 serious reading. Một trong những nhân vật gợi ý, tôi ấn tượng E. B. Browning - đây là nữ nhà thơ, người Poe đề tặng dưới tên Elizabeth Barrett Barrett trong The raven and other poems; còn gợi ý The decline and fall thì phải từ từ, Evelyn Waugh đã xuất hiện trong tiếng Việt 2 đầu, chính The decline and fall mới được dịch gần đây [tôi tiện công mua, lại mua 2 :)))] nhưng mới chỉ có 2 đầu được dịch thì tôi vẫn phải để dành, nhiều nhiều tôi mới gom vào một lần giải quyết [nhiều nhân vật tôi không nhịn nổi thì tôi mới đọc và viết lèo tèo 1-2 nhát 1]

mở ngoặc: trong Chuyện các bà vợ già, chi tiết Sophia giai đoạn kinh doanh nhà trọ, có đặt diêm, đèn cồn cùng đồ ăn, trà... tất cả trên một cái khay trong phòng cho khách về muộn/người ốm [tôi không nhớ lắm]; tôi không hình dung được thời ấy, với những vật dụng bé như vậy có thể hâm nóng đồ ăn, đun được nước pha trà chỉ trong chớp mắt và nhất là ngay trong phòng, sát chỗ ngủ, đàn ông ngầy ngật ốm cũng có thể làm được... trong How to live on 24hs a day, điều này sẽ được mô tả chi tiết ngay ở lời nói đầu. Chi tiết này đi kèm lời, hãy dậy sớm 1-2 tiếng mỗi ngày và đi ngủ sớm hơn khi có thể, 1 tiếng làm buổi sáng sẽ làm được nhiều hơn 2 tiếng buổi tối. Câu này chắc chắn dành cho tôi nhưng tôi thấy chả có gì liên can đến mình :)))); sáng nay tôi bị tỉnh giấc lúc 4 giờ sáng vì tối qua đi ngủ sớm, quá nửa đêm tí thì phải, tỉnh giấc mà không ngủ lại được như mọi khi, nên vẫn cách cũ: đọc sách cho buồn ngủ; và thế là tôi đọc nốt được 30 trang, xong quyển how to live 😛 bản tiếng Việt cả tuần rồi chưa xong; rồi đánh một giấc đến 8 giờ sáng vì mèo kêu gào đòi ăn nhiều quá :)))

ps. ngại quá, đặt 2 bìa sách cạnh nhau. Sorry 🤦🏻‍♀️🙏🏻

21.8.25

the girl who drank the moon



ngày tôi còn bé, mỗi khi đọc hay xem gì đó cho tôi cái nhìn, câu chuyện về thế giới phép thuật; tôi nghĩ quanh đây hồ như, đều là phép thuật, vì vô hình, không lý giải. Không nhìn thấy không có nghĩa là không tồn tại; phép thuật, sự vô hình có lẽ đó là một [hay, hai] trong vài điều tuyệt vời nhất thế giới này

khi đã trưởng thành, tôi nhận ra ý nghĩ của mình, về phép thuật, về sự vô hình của nó: tin tưởng vào những điều vô hình thì càng khiến chúng mạnh mẽ và tuyệt diệu hơn. Giống như, đến tận lúc này, mỗi khi không tìm thấy đồ vật gì, tôi vẫn tủm tỉm cười với suy nghĩ: lại những người vay mượn tí hon rồi, lại là họ rồi 🙂. Đó là cách những câu chuyện cổ tích, câu chuyện phép thuật, thế giới tưởng tượng bám rễ vào một đứa trẻ [có thể cả đứa trẻ bên trong tôi, nếu có, nếu còn, tôi chiều chuộng chúng] trong thụ hưởng; bởi những câu chuyện đã được viết nên bởi ai đó bởi các tác giả và, từ đấy thế giới trong mỗi người đọc, người tiếp nhận nhảy múa theo những nhịp riêng viết nên những câu chuyện riêng. Đó mới là câu chuyện thực sự, nó diễn giải cuộc sống ở đây, theo một cách khác về việc đứa trẻ phải lớn lên, điều ý nghĩa gì trong việc lớn lên trưởng thành và, có lẽ, cần phải đau khổ rất lâu thì mới có thể tìm về lại nơi ta thuộc về, trở về lại một cảm giác ngọt ngào thuở nhỏ của những câu chuyện cổ tích, phép màu. Đó mới là câu chuyện thực sự

ps. quyển sách trong ảnh có dựng phim hoạt hình không, câu chuyện hay như thế này mà tại sao cũng giải newbery nhưng tôi ít nhìn thấy nó xuất hiện. Mỗi khi đọc truyện kỳ ảo, tôi luôn nể những người dịch dòng truyện này, họ có thể dịch những tên nhân vật nghe vừa súc tích vừa chuẩn và, tất nhiên là đặc biệt đúng, thí dụ như, người ăn sự đau buồn của người khác để sống để làm thành sức mạnh phép thuật, là: Bất Hạnh Thực Nhân 🙂

18.8.25

lectio divina



kịch năm hồi Đàm đạo Cát Minh [Dialogues des Carmélites] của Georges Bernanos. Sách do nhóm dịch Đan viện Trappist Đức Mẹ Sept-Fons biên dịch, đây là lectio divina 7; có lẽ tôi sẽ mua đủ các ấn phẩm lectio divina, hình như cũng khoảng gần 20 rồi; nhiều người bán sách cho tôi, thi thoảng thấy tôi nhắn hỏi về sách, các quyển về bài giảng bên đạo, sau đó họ có sách tôn giáo, thường nhắn riêng mời tôi vì nghĩ tôi là người bên đạo và nhiều khi sách bên đạo, tôi mua cũng rất dễ tính, tôi muốn đọc ở mức thấp nhất con người, tôi tò mò 


những người phụng sự, hiến mình bên đạo thường nhìn người vô đạo, như tôi, khi sờ đến Thánh Kinh bằng con mắt phán xét, đại ý: khi cô đọc Thánh Kinh theo hướng tò mò tìm tòi nghiên cứu tra lời Thánh lời Kinh, cô phạm tội lỗi [có lẽ họ nghĩ, một người đọc là một người không dùng phần linh phần hồn, không dùng tim gan để đọc; họ nghĩ một người đọc là một người đọc :)]. Không ai nói với tôi, những người đọc lời Thánh Kinh mỗi ngày, tụng kinh gõ mõ mỗi ngày, hay cầu nguyện lời đạo của họ mỗi ngày, họ có thực sự nhìn vào bên trong họ, hay vẫn như cách họ sống, khiến tôi thấy hoài đạo; hay, những người đọc, như tôi, vì muốn hiểu đời sống của người có đạo, được nuôi dưỡng bằng những gì, từ đâu mà ánh sáng đó khuấy động, giày vò sự dữ để dẫn con người vào màu nhiệm của ân sủng... Vậy thì, tại sao không


lectio divina, một thực hành cho đời sống tinh thần, đời sống linh hồn của người có đạo có đức tin, ngay cả người vô đạo cũng có đức tin có đạo của họ, đời không thiếu những người vô đạo sùng tín tâm linh, kẻ sùng đạo vô tín ngưỡng; lương thực cho linh hồn thì là lương thực, còn phụ thuộc ai thụ, thụ gì, thụ như thế nào 


đọc cho phép người ta đào sâu, bất cứ lúc nào, chính điều đó giữ cho người ta sống động, đọc lời Thánh lời Kinh hay bất cứ gì, không ai nói chắc chắn cùng một cái đọc tác động đến người đọc, giống hay khác thế nào, một sự việc cho nhiều sự thực với nhiều người, thậm chí, chỉ cho một người nhiều sự thực theo thời gian. Còn Thánh Kinh, chỉ có một Thánh Kinh và Thánh Kinh của mỗi người là của mỗi người; nhưng chắc chắn, với mỗi con người, Thánh Kinh khơi nguồn, đồng hành và dõi theo, trong tăm tối, đêm cùng, những lời làm sáng thêm phần nào ánh sáng mà chính mỗi người đã chuẩn bị sẵn


God's love for us is not the reason for which we should love him. God's love for us is the reason for us to love ourselves. Love is not consolation. It is the light [SW]

13.8.25

lời giao cảm

 


Claudio Magris trong một tiểu luận có viết đại ý: sau tất cả, quê hương là những gì anh bắt rễ vào và là những gì bắt rễ vào anh. Câu chuyện Học viện Công chúa với mục đích lập ra để biến những bé gái miền núi thuộc vùng chuyên khai thác đá linder trở thành các tiểu thư công chúa chỉ bởi một tiên tri, quê hương vợ tương lai của hoàng tử là vùng núi đá linder. Các cô gái miền núi từ 12-16 tuổi đã bị dồn vào Học viện Công chúa, để học đọc học viết, học trở nên quý phái... một cách để những cô gái vươn tới chân trời mới, khám phá cuộc sống dưới xuôi, đồng bằng. Nhưng sâu thẳm nơi mỗi cá nhân, đá linder quê nhà ăn sâu vào da thịt, vào không khí nuôi dưỡng con người vùng núi... như cách những người vùng núi đá linder dùng lời giao cảm để giao tiếp với nhau thông qua kí ức chung tập thể. Ý tưởng lời giao cảm, một ý tưởng đúng và đẹp của tác giả, nó thực hành những khái niệm thuộc về con người mà chỉ có các câu chuyện trong thế giới văn học mới đủ sức làm len lỏi vào lòng người đọc mà không mang những định nghĩa xơ cùn trơ cứng

tôi chỉ biết giả thuyết linder trong kinh tế học về giao thương, nên khi nhìn tên đá linder của vùng núi trong câu chuyện có thể giúp con dân của họ thực hiện lời giao cảm theo truyền thuyết tổ tiên để lại mà họ thực hành với nhau như một cách hiểu ý trong lao động ở mỏ đá, tôi tò mò đi tìm kiếm đá linder có thật không, nó là loại đá trông thế nào mà giá trị giao thương, trao đổi lớn như thế, nhưng hoá ra đó là một loại đá hư cấu 🙂. Tôi đúng là một con mèo tò mò 🤦🏻‍♀️

quyển sách mua 16 năm trước, mua vì thích giải newbery chứ không biết ngày nào sờ tới nó vì nghe công chúa, học viện công chúa là loằng ngoằng rồi, mình không chịu được 🙂. Nghĩ thấy mình thật vô lý, nếu đã không chịu được thì đừng rước về nhà, rước về và không biết có sờ tới không nhưng vẫn rước. Con người gì cố chấp, phi lý. Rồi ngày dọn sách cũng đến, phải đọc để còn đẩy đi. Mang ác cảm với công chúa, học viện..., phải cố tự thuyết phục mình, đọc như bình thường xem nào, mạnh dạn khách quan lên; ban đầu đọc giết thời gian; ngờ đâu càng về sau, câu chuyện mang hơi hướm cổ tích này lại càng đọc được. Hình như nó là một series, nhưng bảo đọc quyển tiếp thì tôi sẽ không, nếu biết trước nó là series thì không chắc tôi đọc, kinh nghiệm cho thấy quyển đầu series mà hay thì các quyển sau dễ tạch, còn nếu quyển đầu mà tạch thì các quyển sau 50:50 😛

12.8.25

tiểu thụ nhân




một câu chuyện phiêu lưu, ngụ ngôn về thế giới tự nhiên cây cỏ côn trùng và cách con người cư trú trong đó. Mở quyển sách bước vào thế giới câu chuyện của Tobie Lolness, nơi các tiểu thụ nhân chỉ cao lớn chừng một mi-li-mét rưỡi [hoặc hai mi-li-mét là to cao lắm rồi] với những công việc như chăn nuôi rệp son, hút sữa ấu trùng...; họ được phân chia theo lối, những người giàu sống trên cao những ngọn cây, người nghèo khó trú thân ở cành lá, tộc người Trụi ngoài rìa thì ở dưới lớp cỏ... Truyện phiêu lưu và lại được viết bởi một nhà văn Pháp thì motif nhân vật chính, tất nhiên, là các chàng hiệp sĩ, ở đây là Tobie và các bạn; những người ở phía bất trị hay những bộ óc đã đi quá xa, là những nhà khoa học nghiên cứu về tất tật mọi thứ, nhạc sĩ, nhà thơ..., như bố của Tobie - nhà khoa học Sim Lolness, và, không thể thiếu, những kẻ cai trị trên đường truy đuổi người anh hùng dưới cái nhìn gom những kẻ bất trị, người yếu thế... để dễ bề kiểm soát, phục vụ cho nhóm thống trị 


đằng sau cuộc phiêu lưu trong thế giới tiểu thụ nhân đầy chất thơ của Timothee de Fombelle là những suy tư về sự chung thủy, lòng khoan dung, lẽ công bằng, tình yêu tình bạn và sự gắn bó giữa các tộc người, sự kính ngưỡng với tự nhiên và trí tuệ bản năng của tất tật sự vật trong thế giới ấy. Gấp sách lại, khép lại câu chuyện Tobie Lolness, người ta không nhìn thế giới cây cỏ như trước được nữa, thật khó hình dung cái nhìn ngây ngô đã từng tồn tại; đây có lẽ làm cảm giác chung mỗi khi hiểu thêm chút ít một về tự nhiên


"nhìn từ phía các thiên thần, những ngọn cây như thể chùm rễ uống lấy bầu trời" [Rilke]


ps. phần một Ngàn cân treo sợi tóc viết hay hơn hẳn phần hai Đôi mắt Elisha dù phần hai kịch tính hơn

6.8.25

Louis Sachar



đọc Holes - Những cái hố lâu rồi, sau đó Bước nhỏ vào đời [đều cùng 1 đơn vị làm sách, tên Thương Huyền], có thể xem là phần tiếp nối của Những cái hố [nhân vật chính là 2 cậu thiếu niên khác, cũng từ trại cải tạo thiếu niên ở Holes mà ra]. Quá thích ý tưởng mỗi đứa trẻ 15-17 tuổi trong trại cải tạo phải chịu hình thức lao động như tra tấn: mỗi ngày phải đào một cái hố cao bằng cái xẻng 1.5m, các chiều còn lại của cái hố cũng phải đủ cho cái xẻng quay ngang; dưới bầu trời chỉ có nắng nóng, trên một vùng đất như dính lời nguyền, khô hạn không mưa không có nguồn nước để có thể tắm táp quá 4', chưa kể tới rắn đuôi chuông, bọ cạp [Holes có nhắc đến thằn lằn đốm vàng gieo cái chết chắc chắn chết, nhưng không biết loài này có không nhỉ, vì thấy khoa học bảo chúng không độc], đào tới lúc nào xong 1 hố mỗi ngày thì mới được nghỉ... như tự đào hố chôn mình. Chúng nói, cái hố đầu tiên bao giờ cũng khó nhất. Rồi chúng lại nói, cái hố thứ hai mới là hố khó nhất [vì, sau cái hố đầu tiên, cơ thể đau đớn vô cùng, lại tiếp tục những đau đớn thể chất khác]. Rồi chúng nhổ nước bọt vào cái hố mỗi khi ngày đào hố được dừng lại, tức chúng đã hoàn thành cái hố của mình và vỗ vai nhau: cái hố nào cũng là cái hố khó nhất vì công việc địa ngục này dường như lặp lại đến vô tận etc.

nên khoảng 7-8 năm sau, có bản dịch mới Holes - Hố, tôi lại mua tiếp, lại đọc. Chưa dừng lại, khi thấy hiệu sách quen bán Holes, ấn bản kỉ niệm, tôi lại mua tiếp. Và đêm qua tôi phải đọc Holes vì đã mua nó, tôi phải thực hiện cam kết đi vào lòng đất của mình: hễ cứ là sách tôi mua vào nhà thì tôi phải đọc bằng hết


4.8.25

letter to my mother






lão công tử gửi kèm quyển sách vào cùng các phong chocolate, quyển sách cũng không phải lão chủ định mua; không ngờ chính nhờ nó mà bánh kẹo lão gửi tú ăn lần này lại là đợt bánh kẹo tú ưng ý mỹ mãn nhất


vừa mở quyển sách ra, đọc trang đầu tiên, đúng là Simenon của tôi rồi. Cứ thế ngồi đọc giữa trưa Hà Nội 45 độ xê, quyển sách 57 trang hết trong nháy mắt. Viết về bố mẹ trên giường bệnh, hay, ngày cái chết đến dịu dàng, hay, đó là thời điểm nhà văn nhất định phải viết gì đó về người đã từng nằm kia, đã hiện diện "you were still a stranger to me"... đến lúc này tôi chỉ nhớ được Simone de Beauvoir với Một cái chết rất dịu dàng, Paul Auster qua Khởi sinh của cô độc [nhưng mà quyển nào của Paul Auster mà chẳng hiển hiện hình bóng một người bố], còn Camus Người xa lạ thì không nhằm đến hình ảnh bố mẹ trong suy nghĩ của một người nhìn lại cả cuộc đời làm phụ huynh hiện diện trong cuộc đời người con, Người xa lạ là cái phi lý chung của đời người. Có lẽ phải tìm đọc Pedigree của Simenon 


những ngày nắng nực đỉnh điểm như thế này, buổi trưa chính là thời gian đọc sách hưởng thụ của tôi vì đường phố rất vắng, mọi người đã vào hết điều hoà hoặc đang ở đâu đó lánh nắng nóng; chỉ còn mình tôi trưa vắng không ngủ như mọi ngày, ngồi hay nằm oằn èo giữa nhà đọc sách, với cái quạt trên cao quay quay, mồ hôi nhớp nháp trên da nhưng tôi vẫn khoẻ mạnh tỉnh táo không lờ phờ vì sức đốt của mặt trời :)


1.8.25

Hattie big sky



bây giờ có cho 1 mình nhận thừa kế quyền sử dụng đất một mảnh đất công có điều kiện [1, phải xây nhà và dựng hàng rào quây đất, 2, phải trồng cây 1/8 diện tích, 3, hoàn thành trong 3 năm kể từ ngày nhận đất], diện tích khoảng 300 mẫu, cỡ 100 ha, ở một vùng đất "bánh vẽ" thì tôi cũng chịu, ngang với bảo gánh nợ xấu ngân hàng trên vai

thế mà Khoảng trời mênh mông viết dựa trên câu chuyện có thật về bà cố của tác giả [nên câu chuyện tái hiện cả làn sóng bài xích người Đức ở Mỹ, dịch cúm Tây Ban Nha, những người Mỹ đi lính chiến đấu ở chiến trường Pháp...]. Hattie trong truyện 16 tuổi sống cảnh sớm mồ côi bố mẹ, nay đây mai đó ở nhờ nhà họ hàng, với 400 đô bố mẹ để lại, 1 con mèo, 1 quyển sách nông nghiệp cơ bản cùng vài vật dụng... tiến thẳng đến vùng đất cằn cỗi khắc nghiệt Tây Montana với lòng hân hoan hy vọng tràn cung mây "mảnh đất của mình". Khác với Hattie trong truyện, người đã không nhận được quyền sở hữu đất công thì, người bà cố của tác giả đã hoàn thành các hạng mục điều kiện, không phá sản [phần lớn những người nhận đất công thời điểm ấy đều phá sản, khánh kiệt] và nhận được quyền sở hữu đất

câu chuyện diễn ra vào những năm đầu thế kỷ 20 ở Mỹ với làn sóng nhận đất công như một cách khuyến khích mở rộng đất đai sinh sống, cơ hội cho mỗi người đang mong muốn có kế sách sinh nhai, còn chính phủ thì muốn mở rộng mạng lưới đường sắt. Hơn 1 thế kỷ trước có một cô gái trẻ đã làm được điều như vậy, một tinh thần tiên phong và nghị lực phi thường

chứ tôi thì... đi đóng cửa sổ thôi, trăng sao gì nữa, trời sắp mưa rồi. Đôi vai này không ngoan, hay căng cứng đau mỏi cổ vai gáy, nhưng sợ mưa gió như thường. Một nhân vật trong Nausea của Sartre có nói đại ý, khoảnh khắc ngay khi bắt đầu, phải nhảy ngay, ngay, xuống vực thẳm, bởi nếu nghĩ thì sẽ không làm :))); điều này không chỉ đúng với tình yêu, mọi passion nhớ :))); mà tôi thì lười, sự lười thì luôn đi kèm lìu tìu, chỉ có lười nhác là lên hương vĩnh cửu không suy suyển thôi ha ha ha. 2 năm trước tôi tính bỏ nhà đi hẳn tìm đường cứu mình, bạn bảo lên Lai Châu có đất mặt đường [hay qua Yên Bái ở đồi sẵn người quen etc.], có nhà, ở hẳn được [họ lại mong quá], có 1 đêm với chuột thôi [không nói gì đến rắn :)))] đành lủi thủi về lại HN cãi nhau với bố tiếp đòi quyền sống chết. Hèn, được cái thật thà thẳng thắn thừa


26.7.25

just be a dream



mấy tháng trước đọc Con gái của thời gian, có lúc tưởng như mình đang đọc tiểu thuyết lịch sử, nước Anh thế kỷ 15 thời Richard III; còn hôm nay đọc Tôi là Coriander - một quyển dòng young adult, bối cảnh nước Anh Cộng hòa thế kỷ 17, thời kỳ Cromwel sau khi phe Bảo hoàng bị đánh bại [Bảo hoàng và Thanh giáo] trong cuộc Nội chiến và vua Charles I bị xử tử đầu năm 1649 [là đọc truyện nên tôi mới biết, chứ tôi sử sách là mù tịt, sử ta tôi cũng mù luôn]

truyện đưa người đọc về thế kỷ 17 Anh và còn cho tiến vào một thế giới khác, như cổ tích [motif sau khi hoàng hậu mất, vua cha đã để nàng công chúa con mình rơi vào tay mụ dì ghẻ phù thủy etc.], nơi có phép thuật, các phương thuốc, lời nguyền, cái bóng hội tụ ánh sáng vĩnh hằng, phép màu... những điều không thuộc về thế giới này - nơi của cây Thập giá và vị Chúa bị đóng đinh câu rút. Nó làm tôi nghĩ đến A midsummer night's dream, Shakespeare dùng "past the wit of man" và rất nhiều đoạn vào khúc gãy của thời gian giữa 2 thế giới, Coriander làm tôi nghĩ đến một cảnh trong Giấc mộng đêm hè, đại để, khi những người yêu nhau tỉnh giấc, họ cho rằng tất tật những gì đã xảy ra chỉ là một giấc mộng, chúng không có thực; tất nhiên câu chuyện Tôi là Coriander thì không phải những đôi tình nhân nghĩ thế, mà nỗi nhớ mong người mình thương yêu, gia đình êm ấm bỗng chốc tan biến... khi mất dần niềm tin, người thân như tự mình thổi tắt từng ngọn nến hy vọng, sự tuyệt vọng bủa vây thì người ta cũng rơi vào mộng, mộng dữ ngay cả khi đang thức [nếu nghĩ được, khi đang ở thế giới khác, rằng, thế giới mình vừa bỏ lại là just be a dream, cũng có chút an lòng giả tạm, cho đến lúc từ giấc mơ trở về thế giới mộng dữ, trở về một lần nữa ác (mộng) hơn hay đang ở trong nó thì ác hơn, ai biết]

dù câu chuyện có thế nào, tất nhiên rồi, đến cuối cùng chuyện sẽ đi con đường của nó, dòng young adult mà. Mọi thứ sẽ tốt đẹp cả thôi :p, thế giới này người ta cũng thường nhẩm thần chú như thế để tiếp tục sống, không chỉ trong các câu chuyện young adult đâu :p

if we shadows have offended
think but this, and all is mended
that you have but slumber’d here
while these visions did appear
and this weak and idle theme
no more yielding but a dream
[Puck, act V, scene 1, A midsummer night's dream - Shakespeare]

có thực không



thế giới những câu chuyện loài vật thường làm cho đứa trẻ băn khoăn và chúng mang nó đi hỏi ai đó, mà chúng cho rằng có thể cho chúng câu trả lời, rằng: những điều kể trong truyện có thật không, ý là thực sự đã xảy ra như thế í, những con chim con chuột con lợn con chó con mèo con voi con khỉ vân vân và vân vân, chúng có thể nói khóc, có thể nghịch đùa đi học như bọn con [trẻ con] í 


cuộc đời ở đây chỉ là một dạng cuộc đời, vẫn luôn có những cuộc đời trong thế giới của các câu chuyện, trong trang sách, trong những quyển sách đã được đọc được hiểu, thậm chí hiểu sai và, cả những quyển sách còn phong kín; dẫu đó cũng chỉ là một dạng cuộc đời vì có thế nào, trong tâm tưởng mỗi người, vẫn luôn có những cuộc đời, cả khi thức và khi mộng mơ. Những khả thể vẫn luôn ở đó, không cánh cửa nào đóng im ỉm trước mỗi người đọc

25.7.25

famous



Người nổi tiếng và tôi là tiểu thuyết dòng young adult, tác giả Todd Strasser; tôi chưa đọc tác giả này bao giờ, mua nó vì người dịch Nhã Thuyên. Câu chuyện được viết xen vào nhau bởi 4 nhân vật đứng các chương: Jamie thợ săn ảnh, một fan hâm mộ, một người nổi tiếng và một đại diện pháp luật; lấy cô bé Jamie lớp 10 làm nhân vật trung tâm, nổi tiếng nhờ những bức ảnh cô bé chụp người nổi tiếng và cô bắt đầu sự nghiệp của một paparazzi song song với việc học, các mối quan hệ bạn bè, sở thích... của một cô bé trung học đúng tuổi của mình

vì bắt đầu với sự nghiệp săn ảnh người nổi tiếng nên dần dà cô bé cũng bị cuốn vào thế giới người nổi tiếng và danh vọng, đặc biệt khi ở tuổi nữ sinh trung học, cô sở hữu những bức ảnh nhạy cảm của một ngôi sao tuổi teen đang lên. Lúc này, nó đánh vào đạo đức và những lựa chọn cá nhân của cô bé trên con đường chạy theo dục vọng được công nhận, được nổi tiếng

câu chuyện không lạ khi hỏi một đứa trẻ: chúng muốn làm gì khi lớn lên, lớn lên muốn làm gì; càng cộng thêm một tuổi qua mỗi năm tiểu học, chúng sẽ nói với ta chúng muốn giàu, thay vì những năm mẫu giáo chúng nói chúng muốn lái máy xúc, chú lính cứu hỏa, siêu nhân giải cứu thế giới, cô bảo mẫu chăm sóc em bé, cô giáo, y bác sĩ cứu người... Ở thời chúng ta, hiện nay, ngay thời điểm này, bọn trẻ con của loài người cho câu trả lời chiếm tỉ lệ cao lừng lững, chúng muốn làm người giàu và nổi tiếng, hay "cháu muốn làm tóp tóp". Các Đấng trên cao ơi, lũ trẻ của loài người cho rằng trên đời này có nghề nghiệp tên giàu và nổi tiếng

hôm qua trong lúc tôi nói chuyện với mấy người tuổi tôi, đứa trẻ ngồi bên nghe được chuyện về một cậu bạn tôi vừa làm công việc cậu ấy được học hành đào tạo, vừa chơi nhạc lập band theo đuổi sở thích; đứa trẻ 12 tuổi ngồi hỏi tôi: chú ấy có giàu không ạ, có nổi tiếng không, có được lên mạng không, được bao nhiêu lai, nhiều người theo dõi không etc. Thời chúng ta những nghề: không nghề [tức, đống nghề thì... trết]

24.7.25

Bob - a street cat



tự truyện của James Bowen [được chấp bút] - một nhạc công sa cơ lỡ vận đang phục hồi sau cai nghiện với người bạn là một chú mèo hoang, được xem như duyên số [James Bowen được nuôi dưỡng như người Thiên Chúa, nhưng rất thích giáo lý nhà Phật (xưa M. bạn tôi cũng vậy, anh luôn thấy giáo lý nhà Phật sâu rộng và đầy đủ)], mèo Bob. Gặp nhau, đôi tâm hồn được nghỉ ngơi, người và mèo gặp nhau như gặp được cái xuồng cứu mình trong cảnh lênh đênh lạc trôi vô vọng giữa dòng nước lớn

phần lớn người ta nghiện bởi cô đơn. Tôi luôn khâm phục những người có thể cai sống heroin, không ai có thể biết hay hiểu họ đã trải qua những gì. Ở các nước phương Tây, quá trình cai nghiện heroin sẽ được chuyển từ heroin sang methadone, người cai nghiện sẽ phải kéo rất dài quá trình uống methadone rồi giảm liều cho đến ngày được các bác sĩ, chuyên gia cho thử ngắt hẳn methadone, chỉ 48 tiếng không methadone đã rất khủng khiếp rồi, rồi chuyển sang subutex, đến được bước này thì rất gần với việc mình có thể được xem là người bình thường, không nghiện không phụ thuộc thuốc gì [chắc khổ sở như vậy nên với người nước ngoài, ngồi vạ vật với tờ bìa xin tiền vì tôi nghiện, là bình thường, cảm thông được; tôi thương người nghiện, thương theo nghĩa làm người quá khổ, nếu không may nghiện thì cũng vì quá cô đơn, muốn chơi gì đó cho quên thực tại và, cai nghiện, tôi nghĩ, quá cả thử thách thăng tiên nếu có thể cai được, nên tôi thương, chuyện thi thoảng cho tiền người nghiện tôi cũng không tiếc bao giờ; còn những người chơi cocain, một số nước ở sân bay, khi chó nghiệp vụ ngửi ra mùi, nếu khám ra lượng nhỏ và được giải trình là trữ để sử dụng cá nhân thì cũng được cho qua, hình như Úc là thế]. Mô hình uống thuốc để cai nghiện này, gần nhà tôi đã có chú thành công; sau 30 năm nghiện hút chích đủ cả, uống thuốc cai nghiện ròng rã gần 3 năm, thuốc lấy ở trung tâm y tế quận, cuối cùng đã trở về làm người; động lực lớn nhất với chú ấy là các con đã lớn, không thể để chúng nhìn bố mình như "thằng nghiện" mãi được. James Bowen trong tự truyện Bob chú mèo đường phố từ khi có Bob, cũng cố gắng nắm lấy cơ hội của mình, cơ hội được trở về làm con người đúng nghĩa, đến cả việc đi đến trung tâm nhận thuốc phục hồi sau cai heroin, anh ta cũng đi 1 mình, không muốn mèo Bob biết đến một quá khứ lãng phí cuộc đời đã qua

vẫn một câu cũ, thánh thần cũng có quá khứ, tội đồ vẫn có tương lai. Lựa chọn nào cũng có kết quả, hệ quả cùng tất tật liên đới của nó đi kèm. Chọn gì cũng được, đi đủ xa thì đều đến được nơi nào đấy như con mèo trong Alice phán; vẫn thần chú cũ: nói được làm được, làm được chịu được, chịu được dọn được 😛


23.7.25

Anne Fine




đây là tác giả viết truyện thiếu nhi hiện đại tôi thích nhất. Ảnh 1 là thứ tự xuất bản nguyên tác. Ảnh 2 là thứ tự đọc của tôi, mở màn là 2011 với Những em bé bột và Trò đùa của Tulip. Đến giờ với tôi ấn tượng vẫn là Trò đùa của Tulip [The Tulip touch], ngay sau đó là Những em bé bột; 4 quyển của NN tôi đọc trong yêu thích chung cuộc và tôi vẫn sẽ đọc Anne Fine nếu tiện có sách, nhưng bảo ấn tượng như Tulip hay Em bé bột thì không. Trò đùa của Tulip cũng là quyển có màu sắc khác hẳn trong sự nghiệp của Anne Fine; câu chuyện được Anne Fine viết trong dòng sự kiện về một vụ án có thật, tôi nhớ mang máng thế, 2 đứa trẻ 10 tuổi đã cùng nhau khiến 1 đứa bé 2 tuổi tử vong; tất nhiên câu chuyện Tulip không kể về vụ án ấy, nhưng sự kiện này tiếp tục nỗi suy tư âu lo mang tính kinh điển: bản chất là xấu xa tội lỗi hay do nuôi dưỡng môi trường; điều khiến Anne Fine chọn cái kết lửng cho Trò đùa của Tulip là trong sự kiện có thật kia, cách một bộ phận người lớn phản ứng như những người vô sự không liên quan, gần như là đòi trừng trị 2 đứa trẻ 10 tuổi theo lối, nhốt chúng lại và ném chìa khoá đi

năm ngoái trong một đợt thanh lý sách hộ bạn, bạn tôi không có đủ Anne Fine vì cô ấy mua theo tôi, chứ không đọc nên không cập nhật sách Anne Fine đủ; trong số người vào hỏi mua Anne Fine, có hỏi tôi có quyển abc xyz của Anne Fine không, tôi nói có nhưng khả năng cao sẽ không pass, khi nào gặp tôi sẽ vợt hộ. Trong lúc nói chuyện qua lại về Anne Fine, chúng tôi cùng nhau nói về Trò đùa của Tulip, ý nghĩ của chúng tôi về cái ác tồn tại trong mỗi đứa trẻ [nên tôi đã có ý nghĩ, nếu gặp quyển bạn ấy thiếu, tôi sẽ vợt và tặng luôn vì đây là người duy nhất đọc Anne Fine mà tôi biết tại thời điểm đó]

nhờ đọc Anne Fine tôi mới biết ngoài Carnegie dành riêng cho văn học thiếu nhi-thanh thiếu niên thì còn có Whitbread hạng mục cho văn học thiếu nhi [quyển Bí ẩn về con chó lúc nửa đêm của Mark Haddon giành giải này]. Vừa rồi tôi băn khoăn tại sao những năm gần đây tôi không đọc trúng quyển văn học thiếu nhi-thanh thiếu niên nào giải này, thì mới hay biết Whitbread đã đổi nhà tài trợ, thành giải Costa [Costa hình như là công ty con hay một nhánh của Whitbread thì phải] và giải này cũng ngừng hoạt động từ 2022


22.7.25

Tim Bowler - Mark Haddon



2 tác giả Anh viết cho thiếu nhi - thanh thiếu niên; Tim Bowler viết đều tay hơn còn Mark Haddon quyển Bí ẩn về con chó lúc nửa đêm, 16-17 năm trước khi đọc nó lần đầu, tôi quá thích nên đã ngồi gõ lại nó để lưu vào blog, nhưng đến quyển Bùm thì tôi hạ nhiệt hẳn; cũng không rõ trong khoảng 5-7 năm gần đây, 2 tác giả này có quyển nào được dịch thêm chưa, nhất là Tim Bowler có vẻ ít người đọc, từ 14 năm trước ngay khi BV làm đầu đầu tiên đã như rơi vào thinh lặng rồi

hôm trước có đứa tiểu iêu bảo nó không hợp văn học Anh nên chưa để ý Edith Wharton vội; tú bảo tú cứ đọc theo cách các quyển sách chỉ dẫn tú đi tiếp nhưng tú luôn ưu ái văn học Anh, chất phớt ăng-lê, dù tú đọc nhiều Pháp, Đức :p


Berlie Doherty

 


văn học thiếu nhi - thanh thiếu niên, tôi đọc nhiều Newbery, nhưng thích Carnegie hơn. Berlie Doherty đến với tôi lần đầu khoảng 15-16 năm trước với Dear Nobody [ngôn ngữ dịch miền Nam], một câu chuyện điển hình lứa tuổi thanh thiếu niên, không lạ lẫm chút nào, cuối cấp - trước thềm Đại học, Cao đẳng bỗng nhiên có bầu, hai đứa trẻ tồng ngồng mới lớn tính thế nào và khi nhìn vào nó, lịch sử mỗi gia đình, những câu chuyện tình yêu tuổi trẻ, các cuộc hôn nhân thế hệ trước còn lành lặn hay đã tan tành đều lần lượt được nhìn lại với con mắt tỉnh táo khách quan đúng nghĩa hơn; kết chuyện không trọn vẹn như nhiều kịch bản ngoài đời chúng ta đã biết, trọn vẹn theo nghĩa dù là quyết định của hai đứa trẻ hay của những người lớn thì cũng đều là những quyết định đã tính nhiều bước, kết chung cuộc; nhưng kết chuyện của Dear Nobody là một cách giải quyết cho mỗi cá nhân được độc lập là chính mình, cho dù vì bất cứ ai thì trên hết hãy cho mình được là chính mình đã

1-2 năm sau Dear Nobody, Hoàng tử bất đắc dĩ và Mặc cả ở xứ tiên, đến với tôi. Màu sắc của chúng là màu sắc thần tiên kỳ ảo, du dương trí tưởng tượng bồng bềnh như mộng một giấc đẹp ngay khi ta đang thức

ps. một nhân vật thày giáo dạy Văn [2 đứa trẻ nhân vật chính, 1 đứa sẽ cao đẳng nhạc, 1 đứa sẽ đại học văn] trong Dear Nobody có nói, đại ý: ngôn ngữ là sức mạnh, văn chương là tình yêu, thi ca là cái nuôi dưỡng tâm hồn. Tự nhiên tôi thấy người lười như tôi sao lại "giàu có" như thế này được, tôi tiếp tục nạp dinh dưỡng bằng một bài thơ của Yeats 😛

19.7.25

Kate DiCamillo

 





lần đầu tiên tôi đọc Kate DiCamillo là 1/6 [tôi có thói quen mua cho mình quà 1/6, thường là sách, ngày này tôi hay có chút mong ngóng được cho quà, tính khí trẻ con thế thì biết phải làm sao, thi thoảng tôi cũng vòi ai đó mua sách như món quà 1/6 cho tôi, nhưng tôi chưa từng vòi bất cứ gì từ bố mẹ mình] cách đây 15 năm, đó là Edward Tulane. Vì quá thích thỏ sứ, trong cùng năm 2010 ấy, tôi tiếp tục với Despereaux và Winn-Dixie. Khi đã đọc 3 quyển của DiCamillo rồi, tôi mới nhìn "DiCamillo" mà mình viết, tự hỏi cái họ này thì liên quan gì đến nước Mỹ chứ, chắc phải mạn nào đó Ý Tây Ban Nha etc.; hoá ra Kate DiCamillo là người gốc Ý. Thứ tự đọc của tôi chính vì thế như ảnh 1; sau đó, NN đã nhanh chóng xuất bản các tác phẩm mới của DiCamillo, rất nhanh chóng và tôi lần lượt đọc quyển thứ 4 năm 2011, quyển thứ 5 năm 2016 và quyển gần nhất là 2025

về sau, tôi mới biết thứ tự viết của DiCamillo như ảnh 2. Kate là người Mỹ gốc Ý, lớn lên ở Florida, chuyển đến sống ở Minnesota những năm hai mươi tuổi; chính nỗi nhớ nhà và mùa đông buốt giá ở Minnesota đã thôi thúc Kate viết Bởi vì Winn-Dixie, đó chính là tác phẩm đầu tay, không trách nó hồi cố, màu sắc cũng khác 2 quyển Despereaux và Edward Tulane ngay sau. Hôm qua đọc Raymie - Nữ hiệp mộng mơ, câu chuyện bối cảnh 1975 và chi tiết cho biết cô bé Raymie 10 tuổi, tôi liền nhẩm nhẩm 1965, vậy là tính cách, sở thích, tâm trạng... của các cô bé sinh năm 1965 vào thời điểm năm 1975 ở Florida sao [nơi Kate lớn lên], rồi tôi nghĩ có lẽ đang là một cách viết lại, viết tiếp và phóng tác chính mình, chỉnh đốn các ký ức, nhà văn đang thực hiện công việc ấy cho, trong và trên chính chất liệu là mình. Kate DiCamillo sinh năm 1964

sáng nay tôi có một đoạn voice chat với bạn nói về Ryu Murakami tác giả tôi đã gả đi từ 2 năm trước, bạn hỏi tôi còn sách của Ryu không vì bạn chỉ có quyển gần nhất ở Vn của ông í, lại là quyển tôi không có không đọc và không có ý định mua. Tôi nghĩ về những nhà văn tôi đã đọc, đã gả đi tủ sách khác; một cảm giác khoan khoái dễ chịu, không tiếc nuối. Tình cảm đã có giữa các bên, dù có ở đâu, lúc nào thì đã có những ngày, những trải nghiệm thuộc về nhau; tính sở hữu gay gắt không còn tồn tại nữa [bảo không lưu luyến là nói dối lòng, điêu dân], ai cũng cần đi tiếp và tiếp tục những trải nghiệm vì chỉ cần ai đó sẽ đến, ai đó đến, tiến tới chủ động thì đều là người xứng đáng, như câu chuyện thỏ sứ Edward Tulane

ps. những sách trong khoảng đọc 3-4 năm gần đây, còn rất ít quyển tôi ký vào và ghi ngày tháng đọc xong; còn thò bút viết vì còn nghĩ "của mình, mãi là của mình" nhưng mà làm gì có thứ gì mãi là của mình; ký ức kỉ niệm [y dài i ngắn, thói quen] là thứ sở hữu duy nhất, chẳng phải rồi cũng bồng bềnh một phần... bình thản thôi, bà già


nữ hiệp mộng mơ




lâu lắm rồi, tôi xem the voice Mỹ hay một chương trình cuộc thi hát nào đó ở Mỹ [không phải Anh dù tôi thích xem the voice Anh, Đức hơn, tôi nhớ rõ Mỹ vì người Anh nói khó nghe rõ lắm, còn Đức thì tôi chịu rồi], có một cô gái trả lời phỏng vấn lý do cô ấy đến với cuộc thi, đại ý: cô ấy muốn xuất hiện trên phương tiện đại chúng, càng vào được sâu các vòng trong thì càng tốt vì cô ấy mong rằng ở nơi nào đó bố cô ấy nhận ra con gái của mình đã lớn khôn và tài giỏi thế nào, ông đã bỏ đi khi cô 17 tuổi và gần 10 năm rồi cô chưa được nhìn thấy ông, chỉ muốn nói, nếu lúc này ông có vô tình nhìn thấy con gái, rằng, con rất nhớ bố...


cô bé Raymie trong truyện cũng như vậy, muốn tham gia cuộc thi, mong chiến thắng, để ở đâu đó, người bố bỏ đi cùng người phụ nữ khác có thể nhìn thấy cô bé và trở về. Một ý nghĩ và hành động can đảm, thừa nhận mình cần một ai đó, ngay cả khi người ta không đặt mình ở vị trí quan trọng. Không ngạc nhiên khi nhân vật 10 tuổi này đã luôn hành động như một nữ hiệp. Một nữ hiệp mộng mơ - Raymie Nightingale [tôi đổi họ cho nhân vật đấy :), Nightingale là cái họ gắn với lịch sử điều dưỡng, cũng là một nữ hiệp]

14.7.25

giọng nhỏ thì thầm



Những kẻ tuyệt vọng của Minh Tran Huy [Trần Huy Ngọc Minh] - nữ tác giả Pháp gốc Việt có câu chuyện làm người đọc nghĩ nhiều đến Annie Ernaux [ngay cả chi tiết phá thai ở Những kẻ tuyệt vọng, cũng khiến nghĩ đến Ernaux; ngoài ra, Jane Austen, Emily Bronte, Edith Wharton...], lưu vong giai cấp; ở đây, nổi bật hơn, là lưu vong văn hoá. Giọng của Ernaux thì luôn trung tính, gọn, có thể cho là bàng quan, mỗi khi nói về xuất thân gốc gác của mình, còn Minh Tran Huy thì cầu kỳ, ẩn dụ, chất liệu cổ tích dân gian Việt Nam rất hay được sử dụng như một quy chiếu văn chương [một trong số đó là sự tích trầu cau, khi nghĩ lại sự tích này, tôi nghĩ đến 3 thứ trầu - cau - vôi nghiền nát cùng nhau tạo thành màu đỏ bã trầu, như máu, phải nghiền nát cùng nhau mới tạo ra thứ như máu, chung một huyết mạch; thật dã man, nghiền nát cùng nhau]

câu chuyện mở màn tưởng như một truyện trinh thám với các chương được kể xen kẽ nhau 2 giọng: Lise - nhân vật chính và Người kia - giọng khách quan, mà đến nửa sau người đọc mới đoán ra Người kia là giọng ai; rồi nhận ra nó là một truyện tâm lý tình cảm, tâm lý xã hội có một mở màn khoác vỏ bọc trinh thám "hai người họ không tài nào yêu nhau theo cùng một nhịp, mỗi người luôn chậm hay nhanh hơn người kia cho đến khi cái chết cuối cùng mới tìm được cho cả hai một thoả hiệp..." [chuyện ái tình không cho phép giọng nhỏ thì thầm trong mỗi người lên tiếng, dù nó luôn thì thầm thì thầm thì thầm những lời đúng, nhưng chuyện ái tình thì làm sao mà biết đúng sai được :)))]; đến những chương cuối lại như một truyện liêu trai, không khí gothic...

Những kẻ tuyệt vọng do Thuận dịch, là tiểu thuyết thứ 3 hay 4 của Minh Tran Huy, không biết những tiểu thuyết trước thế nào, nhưng Những kẻ tuyệt vọng có đoạn kết bị non, tôi đoán đây không phải tiểu thuyết đặc sắc nhất của Minh Tran Huy nên nếu có dịp thuận tiện, tôi sẽ tiếp tục đọc tác giả này, bởi yếu tố tôi đánh giá cao chính là giọng của cô ấy, chịu ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam nhưng không phải giọng văn chương Việt đương đại. Như Thuận, trong 9 quyển thì ngoài T mất tích, 8 quyển còn lại vẫn đậm màu văn chương Việt đương đại, 1 số trong đó đã xuất bản tại Pháp, quyển mới nhất Thuận còn viết thẳng tiếng Pháp. Còn Minh Tran Huy thì giọng văn chương Pháp, theo như Thuận nói trong Lời nói đầu, Minh Tran Huy cùng những tên tuổi khác "đang làm nên cái gọi là văn chương gốc Việt"