Tác giả : Nguyễn Ngọc Tư
( tiếp theo )
Đôi lúc em quên là em - có - buồn. Đó là hồi em ở Mai Lâm. Công việc của em là không cho đàn bò bên xóm ghé qua rẫy ông Tám Nhơn Đạo.
Vừa ngó chừng, vừa làm cỏ rẫy, bón phân. Tới mùa thì đánh lá mía, hay thu hái bắp, đặt hom khoai mì. Khi nào đói thì vô nhà sau ông Tám, lục cơm ăn, có khi gặp ông đang chẻ củi, làm thơ, có khi nhìn thấy bà ngồi trên xe lăn, coi phim Hồng Kông. Sau đó thì thấy buồn ngủ, lăn ra chiêm bao thấy mình nói chuyện với con Cò, nghe con Cò than, con Vện lúc này chắc thay lòng, không thương nó nữa, nên lãng tránh nó. Việc nói chuyện với con này con kia làm giấc ngủ trở nên hấp dẫn và dễ chịu.
Em ngủ bất cứ lúc nào và dậy bất cứ lúc nào, không ngày không đêm, không một nỗi nhớ nào rõ ràng, và đủ sâu để cho em ngồi nhìn vào. Gió bầy đi rồi gió lẻ tới, mỗi mùa gió có một tiếng nói riêng, nên âm thanh chung quanh em lúc nào cũng thanh thao và trong trẻo.
Lâu ngày, không còn giật mình vì tiếng người nữa. Nên cái bữa ông Tám ra chòi, em không hay. Bỗng dưng thấy mình bị ép chặt xuống tấm ván mối ăn lấm tấm, và một bàn tay lần vào áo em, thì em giật mình. Em gào lên, nhưng giọng tắt trong bàn tay khẳm mùi rượu, thịt và nước tiểu. Cũng không chắc cái âm thanh bỏng rát trong cổ họng em là tiếng người, và nếu cố hết sức, thì từ chòi rẫy choi loi này, chỉ người đàn bà đang ngồi xe lăn nghe thấy. Có thể bà cũng không biết đó là tiếng kêu của em, vì nghe như tiếng chó tru, tiếng chim đêm thảng thốt, tiếng mèo gào trong bụi cỏ…
Em lặng lẽ làm đám tang cho ông Tám Nhơn Đạo. Những gì em giữ cho ông đều biến mất, vụt tắt, nắm xôi ông trao cho em ở góc chợ Mai Lâm, tấm vải ông xé áo mình để bó tay em hôm bị dao cắt, cái góc thức ăn mặn sẵn ông để dành cho em trong tủ chén, giọng ngâm Vân Tiên sảng khoái vẳng từ trong nhà những sớm mai, dáng ông ngồi nhẫn nại gội tóc cho vợ những ngày nắng ấm…
Giờ một người đàn ông xa lạ đang lúi húi trên em, như con Cò thường lè lưỡi liếm để gọi em than thở chuyện đời nó. Lạ lùng, em không còn cái cảm giác ran khắp người. Giống như cảm giác đó đã chết. Từ khi nghe lại tiếng người, mùi người.
Đó là lần đầu tiên em phát hiện ra, vài thứ ở đây tên gọi đều không đúng với bản chất, thí dụ như con Cò thật ra là con chó, con Beo chỉ là một ả mèo mập ú và lười, rẫy bắp nhưng mùa này tàn bắp, chỉ cỏ và gió tơi bời…
* Không ngờ bà nội Dự lại ở trên con đường mà phải trên mười lần, chiếc Landu chở hàng xuôi ngược qua đó. Một con đường chạy giữa bờ biển và những ngọn núi đá vôi, nhiều chùa trên núi và nhiều sương khói trong chùa. Dự luôn lặng lẽ khi đi trên con đường này, mà trước đây, cậu ta nghĩ, “chỉ vì thấy nó đẹp, mà buồn…”.
Cho đến trưa nay thì Dự cũng nghĩ do con đường ít người, hiu hắt nên đi qua đây cậu ta thấy bồn chồn. Khi dừng lại, vào quán nhỏ uống thứ cafe pha bột bắp lạt nhách, nội Dự sai một người đàn bà bưng con hải sâm ngang qua, Dự thấy lạ quá gọi vào nhìn cái con vật lơ đãng vật vờ trong nước như một tảng rêu sẫm màu. Nội Dự kêu chị này nói một câu cũng bâng quơ:
- Thấy mặt cậu giống một bà già hồi trước lang thang khúc này.
Dự nhìn chị trân trân, đồng tử như sắp lăn ra ngoài, cậu ta rút tấm hình từ trong áo ra, ngập ngừng, chị ơi có phải người này. Nội Dự đã dặn trước, nên chị bán hải sâm gật đầu liền, thì bà này nè.
Chị dẫn mọi người đến chỗ bà nội Dự. Một ụ đất bên đường, được đắp bằng tấm áo cỏ chen lẫn hoa mười giờ đỏ. Hoa là do chị trồng. Rồi người trong xóm kéo ra, họ gật gù nói đúng rồi.
Dự phục xuống mồ, hoa nát trên tóc, khóc rống lên. Gã lặng lẽ ngồi nhổ cỏ. Cô gái chạy về xe và lấy một chiếc khăn tay cũ, đã phai màu, dúi vào tay Dự, "cái đây để khô...".
*
Có thứ âm thanh của con người vẫn còn đẹp, đó là tiếng khóc. Có bữa em vào nhà ông Tám Nhơn Đạo kiếm cơm, em nghe bà Tám khóc. Ông đi đám giỗ.
Tiếng khóc của bà óng suốt, đen nhức nỗi buồn, nó không lẫn màu chua xót, màu tức giận, màu tủi hờn… Thăm thẳm. Đen nhức. Như một cái biển sâu và tối mà bà ngụp lặn chỉ với đôi tay. Em lặng lẽ bưng tô cơm ngồi ngoài hè, chỗ gộc cây ông Tám kê bữa củi đã bị băm nát, uống tiếng khóc ròng ròng.
Rồi một bữa, lặng lẽ tìm phần cơm của mình, em lại nghe tiếng khóc, đã đục ngầu nhàu nát, sau khi bà nghiến răng :
- Con đĩ ! Sao mầy còn lãng vảng ở đây ?
Em vỗ đầu con Cò. Đi. Và nó theo em tới cái quán ở ngã ba. Vài người biết em là con nhỏ câm đang giữ rẫy cho ông Tám. Họ ngạc nhiên thấy em định đi đâu đó mà không có tiền. Một người có giọng nói rất dịu dàng cầm tay em nắn mãi, trời đất ơi, thiệt là tội, lạc cha lạc mẹ, về với chị đi, không làm gì nhiều, mà chị lại trả công.
Em bỗng thấy nghẹt thở, bởi đọc được điều gì đó không thật. Em cảm thấy mùi mồ hôi, hơi thở trơn láng, nhịp tim trôi tuột, những thớ thịt rùng rùng nhảy nhót trên gương mặt bén lẹm của chị, bụng em quặn lên, cổ họng cong oằn, em nôn. Cơn nôn đầu tiên bắt đầu ở đó, quán nhỏ ngã ba đường, nhiều bụi và ruồi. Lúc đó em không biết nó sẽ lặp lại dai dẳng sau này, ở những nơi có người, đông người, nơi người ta vẫn hay nói dối.
Con Cò quỳ dưới chân em, từ tốn liếm láp đống nôn, cơm khô và cá khô. Cái lưỡi dài và mềm của nó như thấu vào lòng em đang khô rốc. Em thấy mát rượi từng vệt. Vài chiếc xe dừng lại mời gọi, cánh cửa mở ra lố nhố những người. Cái cảm giác trào ngược lảng vảng làm em đứng yên, tuyệt vọng.
Em quay lại căn chòi, với con Cò. Đốt củi nướng khoai cho qua cơn đói, đêm nằm nghe những sợi nước ngầm chảy re rắt trong lòng đất, tiếng đuôi thằn lằn rụng từ vách xuống, tiếng con chuột ngứa răng cắn nỉ non vào gốc cây, tiếng lá khô lay lắt rơi đậu trên một chiếc lá khô khác… Em đã đi quá xa trong việc lắng nghe những âm thanh sâu thẳm của bóng đêm, đến nỗi giờ em cũng cảm giác được máu chảy trong con người. Em không biết phải làm gì với khả năng kỳ dị của mình.
Ba ngày sau một người tìm đến, anh nói anh người của chương trình truyền hình "Giã từ lưu lạc", "cha em nhờ tôi tìm em…".
*
Về nhà. Dự đã rời khỏi chiếc Landu trong một sáng nhiều mây ở chân trời, có vẻ cả ngày sẽ mưa. Không phải tiễn xa, chỉ cần mở cửa xe tải và đu qua, chui vào chiếc xe khách, vậy là thành một cuộc đi. Nhẹ nhỏm. Bình thường. Gã hầu như không vẫy tay. Cô gái ngó Dự, vẻ mặt vẫn lãnh đạm và có chút ngơ ngác. Xe đi rồi cô nhắm mắt ngay, có vẻ cô mệt mỏi vì phải mở mắt nhìn lâu như vậy.
Mưa nhanh chóng phủ lên chiếc xe tải một cái bạt trắng xóa. Gã hút thuốc chậm rãi, thoáng nghĩ về thằng nhỏ phụ xế cũng đang chung một cơn mưa, thoáng nghĩ từ điển cuộc đời mình quá giản dị, nó không có chữ "về nhà". Cũng như "gửi thư", "mua quà", "nhà bếp", "sinh nhật"…
Dường như từ trang đầu tới cuối, chỉ vài cụm từ như "ra đi", "lên đường", và "trôi".
Xe dừng trước một cái cổng cao, kín bưng, cha nói, vô đi con, đây là nhà mình. Em có chút không tin. Bức vách, mái nhà, cái hàng ba, những viên gạch… tất cả đã thay đổi.
Cái hộp giấy đựng sáp đèn cầy em đã giữ lại từ quan tài của mẹ cũng không còn ở trong góc phòng, giữa hai tủ áo. Sáp đèn cầy nham nhở đỏ như máu đông lại, hơ trên lửa, nó sẽ chảy thành dòng. Hồi nhỏ, em đã từng hình dung, nếu đem mẹ ra làm cho ấm, máu mẹ sẽ lại chảy trong người.
Không tìm được hộp sáp, em đã tin thật sự đây không phải là nhà của em. Nơi này thuộc về hai đứa trẻ con của cha và chị Băng, vì chúng biết giữ cho thảm sạch sẽ, biết xoay vòi về phía nào để nước ấm áp, bật nút nào thì ti vi sẽ có những người đàn ông mình trần đánh nhau trong một cái chuồng bằng dây.
Thật may em thấy thích chỗ của những con cá sấu. Ngồi nghe xương của những con cá nhỏ, rạn nhừ trong những cái hàm đầy răng nhọn, và nhìn từng giọt nước mắt chảy ra. Cá sấu không khóc cho những con mồi, dù chúng vẫn chảy nước mắt. Thật kỳ lạ, em không nôn vì điều đó, có lẽ do cá không nhiều máu và không có tim, không mồ hôi không nước bọt, nên em không bị khối hỗn độn đó giày vò. Như hôm ở trường quay, khi người ta mời ông Tám Nhơn Đạo vào, và ông nói ông tìm thấy em ngồi đói rách trong chợ như thế nào, ông đã nuôi nấng, yêu thương và che chở em ra sao:
- Vợ chồng tui đơn chiếc, nên tui cưng con nhỏ như con đẻ của mình vậy.
Ông nói. Và một cái vòi đắng nghét từ miệng em phụt ra. Cả trường quay nhốn nháo.
Rốt cuộc, nếu như có gặp những con chim hót dối rằng mùa xuân đã về, những con chó nhìn bóng trăng sủa dối rằng kẻ trộm tới… thì em sẽ không sao.
*
Hay là đuổi con nhỏ đó đi đi. Trong lúc xoay nhau trên giường, người đàn bà nghẹn ngào bảo vậy. Gã với lấy áo, hỏi, ghen à? Chị bảo không, tại nó ma quái kỳ cục quá. Nhưng gã thấy mình đã xong. Gã ngồi dậy đốt thuốc, chậm rãi nhìn chị, nhìn lại một lượt căn phòng đã che chở cho gã khỏi gió lẻ đêm nay. Những mạng nhện rối tung đòng đưa theo cọng dây điện nối chụp đèn, trên những tờ báo dán vách là những khuôn mặt nhìn đăm đăm vào gã. Mỗi khi vào lại căn phòng này, gã không nghĩ là mình đã đi hàng chục ngàn cây số, trong hai năm quen chị. Những người trên vách vẫn râu vẫn tóc, vẫn một ánh nhìn, một nụ cười, một vẻ đăm chiêu.
Nhưng giờ gã sẽ không còn gặp lại họ, cũng như chị. Chị đã bước qua giao ước, chị yêu. Những ghen hờn bắt đầu giống như xảy ra trong một gia đình, mà gã thì không có phần trong gia đình đó.
Gã ra xe. Cô gái ngơ ngác mở mắt ra thấy trời vẫn tối mịt mù, cô xuống xe vào nhà rửa mặt. Chị chủ nhà ngồi chải tóc, nói vọng ra:
- Ăn ngủ dầm dề với tụi lái xe tải đường dài, thứ con gái tệ hơn giẻ rách…
Cô gái lặng lẽ dấp nước trên mắt, rồi đi. Chiếc Landu sẽ không bao giờ de đít đậu lại ở khoảng vỉa hè lởm chởm gạch vỡ. Người đàn bà kia cũng biết điều đó, nên quăng cây lược xé vào bức vách thẳm suốt những mặt người.
*
Đôi khi những lời vô tình khiến em nhớ tới một vài thứ em bị mất. Đôi khi nhìn vài người mẫu áo tắm đứng nằm sóng xõa trong mấy tờ lịch phai úa, em điềm nhiên nghĩ, mình đã từng có những da thịt như họ. Giờ thì không còn.
Chỉ nhớ là mất. Không tiếc nuối, không có ý định tìm lại. Giữa em và cơ thể em tồn tại vài mối liên hệ ít ỏi, lúc đói, hay những cơn đau lúc em nôn. Một cơ thể bất động thì đi cùng ai cũng không quan trọng.
Và điều đó làm ông Buồn cho em ở lại trên xe ông, bởi khi em nhắm mắt lại, thì em đã không tồn tại nữa. Em biến mất trong tiếng nước sánh ra khỏi những thùng cá phía sau, tiếng cái mui vải lồng gió phần phật, tiếng một mảnh thép bị đứt mối hàn va lập cập vào thân xe… Nhưng em thấy vui vì ông không nhìn thấy em, nghĩa là em có thể cùng ông Buồn đi hết đời này, trời này, đất này. Để lâu lâu em lại giở giọng của muông thú ra, và ông phì cười.
Một hừng đông xe tới Lạc Mai, anh Tìm Nội đang đứng đó vẫy tay rối rít, anh nói anh đã chờ ở đây mấy ngày rồi. Ngồi vào cái chỗ ngồi quen thuộc, anh vỗ vai em, bằng điệu bộ hết sức tự nhiên, “phải dạy con nhỏ này ăn nói tử tế cho giống người ta mới được…”.
Cái cách anh Tìm Nội nhìn thấy em làm em có chút ngơ ngác. Nói giống như người… có lần em cũng nghĩ tới. Đó là lúc em nhớ lại giọng nói của bà cụ có hai túi áo ấm mùi trầu. Nhớ anh Tìm Nội gọi em mỗi sáng, “nè thức dậy đi, đừng có chết à nghen…”. Có bữa nấn ná nhắm mắt thêm chút nữa, anh này bỗng thảng thốt, “ê, bộ chết thiệt hả ?”. Nhớ người đàn ông bán báo dạo không quen biết, một bữa ghé mắt qua cửa kính, tần ngần, “nằm vậy tê chân sao chịu nổi…?”
Những gì em đã mất, chỉ tiếng nói em còn nghĩ tới, đôi khi. Ban trưa, nghe tiếng rao chè ơi hỡi ơi hời, hay tiếng gọi nhau vời vợi, em bỗng thèm nói – giống – người. Để khi anh Tìm Nội sụp khóc bên mộ nội, em sẽ vỗ về, bảo “anh cứ khóc, tôi ngồi cạnh đây, tôi chờ”. Em cũng muốn nói với ông Buồn, em thích ông cười, những lúc đó máu chảy trong ông thật sự giống như người sống.
Nhưng nói – giống – người thì em cũng phải nói những lời dối, gây đau, nói để giày vò nhau… Biết đâu, em sẽ vừa nói vừa nôn thốc tháo. Biết đâu em vừa nói vừa khóc.
Có buổi chiều ngồi ở cabin, em nghe trong nhà, chị đàn bà bảo ông Buồn:
- Tâm ăn nhiều đi, cá rô mùa này béo lắm. Hồi sáng tôi kiếm mấy chợ mới mua được mớ bông so đũa này để nấu chua. Biết chiều nay cậu ghé…
Chị còn kể nữa, những chuyện bình thường đã xảy ra sau lần gặp gần nhất, cái cầu thang gãy, nhà đằng kia bị trộm, chị bị sổ mũi mấy hôm… Tiếng đũa khua vào chén. Tiếng muỗng chạm vào đáy tô. Hai con chó hục hặc giành xương. Một gia đình đầm ấm luôn có những âm thanh đó, cả những câu chuyện bình thường vơ vẩn được kể bằng kiểu – của – người.
Em bỗng cuộn lại vì một cơn gió lẻ đi qua, buốt tận xương. Nhưng chỉ khoảnh khắc thôi, sau đó thì ông Buồn ra xe. Tối nay ông không ngủ lại với chị, chỉ vì bữa cơm quá đỗi đầm ấm, như một gia đình.
Ông không thích kiểu - của - người, điều đó gần như chắc chắn. Em không còn băn khoăn gì nữa, em sẽ vĩnh viễn nói kiểu của chim, hay của những con bò…
*
Dự khoe, "em dọn dẹp lại cuộc đời…", hôm đó cậu ta leo lên chiếc xe tải với một mái tóc được gọt cao, lộ ra cái gáy trắng kỳ dị trên cái nền đen đúa. Cậu ta trở nên siêng tắm, ăn mặc cũng chỉnh chu hơn. Khi quay trở lại với đời du mục, Dự chỉ nói, "ở nhà cà nhổng không biết làm gì ra tiền, nên theo đại ca thêm ít lâu…". Dự không kể về cái đêm về nhà đầu tiên, trằn trọc trước một ngày mai trong vắt vô tận, bỗng cậu ta thấy cô gái ẩn hiện phía mịt mù.
Dự nhớ cô, nhớ một cách kỳ lạ, làn da xanh tái, những cơn nôn vô cớ, những câu nói tức cười lộn ruột, nửa ngày ngủ nửa ngày mơ màng… Nỗi nhớ làm đêm thật dài.
Sáng sau Dự lên Thổ Sầu, hỏi thăm cánh chạy xe tải đường dài, họ nói chiếc Landu LT1257 đậu ở ngã tư Xuyên Mỹ hôm qua, nhưng sáng nay đi đâu chẳng rõ. Một ông tài xế quen vỗ lưng Dự, "tao tính rủ đại ca mầy lên biên giới chở mấy chuyến điện máy Trung Quốc. Gặp nó thì nhắn tao muốn gặp bàn chuyện mần ăn…". Dự gật gật, biết là chạy tới chạy lui thì không tìm được, người Nam kẻ Bắc. Dự nằm chờ ở Lạc Mai.
Ngày dài nối ngày dài, cậu ta bỗng bần thần, có khi nào họ sẽ không quay trở lại, có khi nào trong phút bốc đồng không cơn cớ, đại ca chạy chiếc Landu vào rừng thẳm mãi mãi, với cô gái. Chuyện gì đã xảy ra vào những ngày Dự về nhà? Dự tưởng tượng ra vài tình huống bình thường nhất giữa người đàn ông giang hồ sành sỏi và cô gái lưu lạc, và những vơ vẩn đó bện lại, thành một sợi dây thòng lọng rất dai, từ từ siết nghẹt họng cậu ta.
Có rất nhiều trạng thái tình cảm mà em không nghe thấy, hoặc có thể nghe mà không hiểu đó là gì. Em cũng chẳng muốn mình biết hết vì không chắc em nôn ít đi hay sẽ nhiều hơn.
Một bữa xe dừng ở ngã tư chợ, em rời khỏi cabin lau kính xe trong lúc anh Tìm Nội và ông Buồn bốc dỡ những thùng hàng. Chợ trưa đông ruồi, ít người. Thưa thớt vài người đàn ông để trần đánh bài, gần đó có mấy chị bỏ sạp tụm lại tỉa chân mày, nhổ tóc. Một người thanh niên dáng vẻ u ám, gầy nhom ghé lại, thì thầm:
- Em tưởng bỏ tôi dễ dàng như bỏ một con chó sao?
Và một chị gục xuống, trong âm thanh róng riết kinh hoàng. Máu chị phun ra thành vòi từ mũi dao xuyên qua ngực.
Em nghẹn đi trong nỗi ân hận, em đã nghe nhịp tim người đó, hơi thở người đó khi anh ta tiến lại gần. Em nghe trong anh ta đang sôi lên, máu ập vào tim như sóng, và trái tim đó như sắp bục ra. Em cảm giác được nhưng em không biết tên của những biểu hiện đó là Giết Chóc.
Rất nhiều thứ thuộc về con người mà em không biết. Như anh Tìm Nội khi từ nhà quay trở lại, nhịp thở trong anh rất khác, như hoang mang, như thắt thẻo, và trái tim đôi khi lay lắt, lúc lại bồn chồn. Em muốn hỏi đó là gì, nhưng rồi cứ nói kiểu - của - chim:
- bị lạ lắm.
*
Dự nạt:
- Biết chừng nào mới chịu ăn nói tử tế hả trời. Phải nói vầy nè, "lúc gần sáng mưa lớn quá".
Cái câu mà cô nói lúc Dự gọi cô dậy là "hồi chút xíu nữa là sáng mưa trôi lắm". Dự rầy rà suốt. Cậu ta thấy mình hạnh phúc khi rầy rà, cái cảm giác được che chở chăm sóc cho ai đó đã mất từ khi bà nội bỏ đi, giờ trở lại tràn đầy.
Và giờ thì Dự có nhiều thời gian cho việc đó. Chiếc Landu đã bị rã ra ở một tiệm sửa xe, gã muốn nó được sửa sang trước khi lên biên giới, với những con đường núi quanh co. Cô gái buộc phải rời cabin, sống như người, ngủ trong căn phòng kín bưng bốn phía.
Dự hay quanh quẩn chỗ cô gái, nằm dài trên sàn nhà, chỏng chân lên vách, cười tủm tỉm vì thấy mọi thứ gần giống một gia đình, ừ, chỉ thiếu bếp, và tiếng khóc của trẻ con… Cậu ta mong mấy ông thợ sửa xe càng lâu càng tốt.
Nhưng cái cảm giác dễ chịu đó không phải ai cũng có, những cái vách bọc quanh làm gã thấy khó ngủ. Đêm đêm, gã ngồi đu bên cửa sổ phòng trọ, lặng lẽ nghe Dự ngáy vang. Cái ý định trở lại những ngọn núi làm gã bồn chồn. Gã nhớ những con đường như kẽ chỉ bên bờ vực, chạy ngoằn ngoèo trên những triền núi đá vôi. Đôi tay người lái xe như múa. Gã nhớ tiếng còi xe cứ nấc lên theo từng dốc đá, loang mãi ra thành một vòng sóng buồn hiu mỏng dần lên đỉnh núi. Rồi chúng rơi từng chùm từng chùm nặng trĩu xuống đáy vực sâu nhói.
Hồi lái xe khách xuôi ngược cung đường đó, gã thích bấm còi xe, như những tiếng gọi chơi vơi. Gã không phải người gọi, mà cũng chẳng gọi bất cứ ai. Chỉ treo tiếng kêu vời vợi ở lơ lửng tầng trời. Ở đây một tiếng động nhỏ cũng được hồi đáp, hất một viên đá rơi xuống, tiếng đá lăn cũng tinh tang rất lâu. Nhiều khi dừng bên mé vực, gã cất tiếng kêu:
"Quyên ơi !" và đá núi vọng lại "ơi…ơi…" rợn ngợp.
Ở trong cái bệnh viện bì bõm nước rong, gã cũng gọi Quyên ơi hàng trăm lần, nhưng người đàn bà vẫn im phắt, trái tim ngưng lặng và cái bụng đã gò lên tròn tròn sau áo không còn chút xao động nào. Gã đã không ngủ suốt hai ngày đêm trước đó nhưng chỉ cần quay lưng lại, họ cũng bỏ đi. Chỉ còn lại những con đường.
Nỗi nhớ không cơn cớ, cứ gặm nhấm giấc ngủ. Khi sắp thiếp đi, bỗng nghe âm thanh của những bánh xe xé những vũng nước trên đường trong khi vút qua, và còn lại tiếng ì ì rất xa. Gã nhớ ra mình đã xa chiếc Landu hơn tuần.
Gã đốt nối thêm điếu thuốc. Cuối dãy là phòng cô gái, cô đang nôn, cái vách phòng trọ bằng ván ép mỏng tang làm cô quá gần với con người. Gã hình dung vẻ mặt xanh lướt và bất động của cô. Gã đẩy cửa bước vào.
*
Âm thanh của những cái cửa khép lại không bao giờ giống hệt nhau. Bởi nó không đơn giản chỉ là tiếng gỗ nghiến vào nhau, hay cú cọ sát của kim loại gỉ sét, mỗi cánh cửa khép là một ám ảnh.
Em nhớ cánh cổng nhà, hôm em khép lại và đi. Nó không một tiếng động, êm ái như một cú lướt. Nhưng em nghe tiếng thì thầm của chị Băng trong phòng hai đứa con mình.
- Con nhỏ đó thể nào cũng chết sớm. Tụi con buồn làm gì.
Dường như những đứa trẻ băn khoăn vì những món trang sức đắt tiền mà em đang treo trên người, và vài phút cha ghé qua lặng lẽ xoa đầu em mỗi khi ăn tối xong. Bàn tay cha rất mềm, có lần vì bận bắt tay với vài người quen mà ông để tay em trôi tuột trong một hội chợ đông người, và cuộc đi bắt đầu.
Giờ thì em tự xé tay mình khỏi tay cha, bằng một lần khép cửa. Ở cái chòi trong rẫy gió Mai Lâm thì không có cửa, chỉ là một cái mành may bằng bao ximăng, cứng và sột soạt suốt đêm, không phân biệt được âm thanh đó do con Cò, gió hay của con người. Nó trơ khốc như nhau.
Rồi khi ông Buồn bước vào căn phòng trọ hẹp và ngộp thở, em bỗng phát hiện ra âm thanh cửa cũng liên quan nhiều tới bàn tay khép cửa. Nghe vẫn gọn ghẽ, nhẹ nhàng như khi ông dập cửa xe.
Ông lại gần em, bàn tay đặt lên cổ em làm ấm ran chỗ đó, rồi ngồi bệt ở cạnh giường, hút thuốc. Nhịp thở sâu và tối của ông rất gần làm khỏa đi khối hỗn độn của đôi người đang thề thốt, hẹn hò ở phòng bên. Mọi thứ đã lắng lại, và dần một êm đềm, em nhìn gương mặt lóe lên theo đốm lửa trên môi ông, cho đến khi mỏi mê, em gấp mình lại thành ba khúc, như trên chiếc Landu, và ngủ. Khi khép mắt vẫn là đốm lửa lập lòe.
Sáng sau em dậy rất trễ. Anh Tìm Nội không gọi.
*
Con đường chỉ dài chừng ba mươi bước chân. Đi hết quãng đó lại hiện ra con đường khác cũng ngắn ngủi. Sương vây bủa, mịt mù. Lâu lâu nghe tiếng xe máy chạy lướt qua, ma quái, chỉ nghe âm thanh rồi một khối đen xé sương lao tới, sau đó vẫn còn cảm giác lờ đờ quanh thắt lưng, nhưng sương đã phủ mất người.
Gã đi đằng trước dẫn đường, cái đèn pin trong tay loang loáng. Đoạn đèo từ đây lên đỉnh Puvan nhiều cua khúc khuỷu, thắt ngặt. Gã đã lái xe đi qua đoạn khó khăn nhất, giờ thì trao tay lái cho Dự. Gã nhớ con đường này, nhớ từng tảng đá, từng khúc quanh. Mười năm gã múa đôi tay mình trên tuyến đường này, dù sương cố tình lấp đi bằng cái áo đục ngàu của mình, gã vẫn nhận ra, dưới chân mình là mé vực. Gã huơ huơ đèn. Dự lờ đờ trôi theo.
Tay Dự tê cóng, vì lạnh và vì các búi cơ căng ra lần dò theo ánh đèn hiệu phía trước. Cậu ta thấy mệt mỏi rã rời. Không biết bao lâu thì mới ra khỏi sương mù, ra khỏi con đường rối bời này. Bên kia núi có mặt trời, có lửa hơ ấm lại người, có quán cơm với những thức ăn quen. Qua khỏi ải sương này, có ai đang đợi Dự?
Không ai cả. Bên kia núi, với Dự còn mịt mù hơn, óng ả một nỗi tuyệt vọng, không một bóng người. Bảy năm Dự cắm cúi đi trên đường vì tin có bà nội chờ mình ở đâu đó. Rồi bà nội mất, Dự có cô gái đưa tay vẫy đằng xa. Nhưng một sáng thức dậy Dự thấy ruột gan mình bị bứt lìa bởi người đàn ông đang vun vai khoan khoái bước ra khỏi phòng cô. Và những tối sau tiếng cửa khép mở cọt kẹt tiếp nối, Dự chong sự mất mát nghẹn ứ lên đỉnh đầu.
Cô sẽ không bao giờ ở trong ngày mai của Dự, dù vẫn ở bên Dự phút này, nằm thiu thiu. Trên người cô đắp tấm áo của gã đàn ông đang huơ đèn đi trước chừng mươi bước. Dự bỗng nghĩ, nếu mình cho xe lao vào anh ta, nếu mình lao vào như một tai nạn trong lúc mình không kiểm soát, trong lúc sương mù rình rập, trong cái lạnh cóng tay. Mình chỉ cần trôi nhanh hơn, và anh ta thì nằm xuống mãi mãi với những con đường, như anh ta đã nói, một chiều nào đi qua đám tang, Dự hỏi, tới hồi đại ca chết, đại ca chôn ở đâu? Anh ta thản nhiên, bên đường.
Dự mím môi, nếu xốc tới thật dài, bên kia núi biết đâu có người đang đợi.
*
Em nghe một đoạn âm thanh rất nhanh bên mình, và em kịp nhớ nó giống hệt của người thanh niên xoáy ngọn dao vào tim chị đàn bà giữa chợ. Lòng em cồn lên, và cơn đầy ứ bắt đầu tràn ngược lên cổ họng. Cách một khoảng sương, ông Buồn đang chậm rãi làm tín hiệu mở đường.
Ông không biết xe đang lao tới. Trong cơn nôn đắng đót, em ngã người giằng tay anh Tìm Nội và kiệt sức níu chiếc xe trôi nghiêng về phía mình, phía không ông, không ánh sáng. Thấy mình thực sự trôi, bồng bềnh và mộng mị trong một không gian tối dần, tối dần và rồi, bóng tối vô tận.
Trong đen thẳm, em nghe Tìm Nội nói, thật ra anh bây giờ đã là một con ma, "con nhỏ này… tôi chỉ định giỡn thôi mà…".
Và em, cũng là con ma, khóc nức nở. Từ đây vĩnh viễn ông Buồn không bao giờ nghe em cất tiếng, bằng kiểu của chuột, của chim, của những con bướm, con kiến, của những sợi nước dưới suối, của những cái lá trên cành… Nụ cười vĩnh viễn tắt trên môi ông, ý nghĩ đó vắt em ròng ròng như người ta vắt một chiếc áo ướt. Nghĩ thấy tức mình lắm, sao người ta có thể đem chuyện giết nhau làm trò đùa.
*
Sương khép dần, tự vá víu cái khoảng trống mà chiếc xe tải để lại trên khúc đường trơn ướt. Gã chết điếng bên bờ cỏ, mặt ướt đầm đìa. Gã đã không ngủ quên, không quay lưng lại, thậm chí không chớp mắt, cũng không sao ngăn lại một cuộc đi. Lần thứ ba gã bị bỏ lại với những con đường, chúng không bao giờ thảng thốt hỏi "Sao ông lại buồn?", chúng cũng không biết âu yếm ôm choàng vai gã để chia sẻ nỗi vui bất chợt.
Kẻ bị từ chối lần ra mép vực, trong cơn thèm muốn yêu thương người, trong nỗi mất mát tê dại, gã cất tiếng gọi chơi vơi rã rời trong gió lẻ, sương mù, đá và cây…
Nguyễn Ngọc Tư (Trích Gió lẻ và chín câu chuyện khác, NXB Trẻ, 2008)