27.2.09

GIÓ LẺ

Tác giả : Nguyễn Ngọc Tư
(Tại sao người ta không nhìn thấy mình khi mình còn sống ?- Lời của một con ma say rượu)
Trận mưa ban trưa đã vẽ lên kính trước chiếc xe tải Landu một mùa gió lẻ. Lá me rơi tầm tã trên mặt kính. Cái gạt nước không làm sao khỏa sạch được những chiếc lá nhỏ mong manh. Người lái xe chồm người đu đưa bên cửa, gạt lá rơi theo tiếng chửi thề lóc cóc. Cái khăn úa màu dầu nhớt trên tay ông ta mở ra trước mắt em bức tranh chợ Cỏ giãy giụa trong buổi xế tàn ngày.
Hai dãy nhà bên đường chạy chưa ngút tầm mắt thì nín bặt vì quãng đồng bỏ hoang. Chợ chiều gì cũng héo, nắng sau mưa héo chiếu xiên trên rau củ héo, và những mảnh thịt cũng héo tái tê dưới tiếng vo ve no say của lũ ruồi. Những người đàn bà đang ngồi bên sạp hàng của mình ngáp ơi hời qua môi khô. Trong tiếng thở dài của chợ Cỏ, em không nghe được hơi nước bay lên.
Một người thanh niên khác trên chiếc xe tải đã chuyển những hũ dưa cải cuối cùng xuống chợ. Anh ta mở cửa xe, ùa vào em cái mùi chua khẳm, anh lay tay em, tới chợ Cỏ rồi, giùm ơn thức dậy, xuống xe.
Em lặng lẽ thò tay vào túi lấy ra thêm một ít tiền. Tim anh ta đập mạnh. Lần này không phải vì tiền, mà vì ngạc nhiên. Thực ra cô muốn đi đâu, anh ta hỏi. Em nhìn anh một chút rồi nhắm mắt, em cũng không biết mình đi đâu hay sau đây anh ta sẽ đi đâu. Em thích ngồi đây, trên cái nệm ghế dường như đã rách, đùi em chạm vào khung thép, một khối mùi hỗn độn chênh chao chung quanh, nhưng em thấy dễ chịu vì không buồn nôn.
Hôm qua từ Xuyên Mỹ tới thành phố, trên chiếc xe khách nhỏ và chật, em lại bị nôn, khi người lơ xe yêu cầu hành khách xuống một cái chợ xã hiu hắt, "bà con an tâm, tụi này chạy đi vá vỏ chút rồi quay lại đón". Những cọng mì từ miệng em tuôn ra, lộn trái dạ dày. Trong đám hành khách nhếch nhác bị bán rẻ dọc đường, có bà cụ kêu mèn đét ơi rồi xoa dầu vào thái dương em, bùi ngùi, "con nhỏ say xe thiệt tội", mùi cốt trầu từ hai túi áo bà ấm sực. Em thấy cổ họng mình không cong lên nữa.
*
Họ không còn nhớ màu của nắng, hay phía của mặt trời rơi, vào buổi chiều chiếc xe tải rời một cái quán ăn bên ngã ba đường đi chợ Cỏ. Chẳng biết được hôm đó có điềm báo nào không, nhện sa trước mặt, hay con chim nhỏ bay lạc vào cabin, hay họ đã làm vỡ một cái tách trong quán nhỏ… trước khoảnh khắc cô gái xuất hiện trước đầu xe, áo cũ nhàu, tóc xõa trên cái cổ mảnh khảnh trắng nhợt.
Cô đứng chắn ở đó, gã nóng nảy nhấn còi. Cô vẫy một tờ giấy bạc xanh. Tiền lung liêng cất tiếng, nó nói rằng con nhỏ này có tôi, và nó muốn đi cùng, trên chiếc xe tải cũ nát, chở những hũ dưa cải từ thành phố đi chợ Cỏ.
Hôm ấy gió lẻ bắt đầu ướm chân vào mùa. Khi mở cửa cho khách vào xe, gió vẽ một vệt lạnh lên gương mặt đen đúa của Dự. Cậu ta làu bàu, “lạnh thấy mẹ…”. Cậu ta lân la hỏi, em quen ai ở chợ Cỏ, nhưng cô gái đã ngủ rồi. Có thể cô không ngủ, nhưng cô nhắm mắt để khỏi trả lời, cái ba lô nhỏ màu lông chuột ghì chặt trong lòng. Gương mặt, bàn tay, và tất cả chi tiết trên người cô toát ra một vẻ câm lặng.
*
Có vài câu hỏi bình thường mà người ta hay dùng để minh họa cho trò ảo thuật, thí dụ như nhà em ở đâu, sao lại đi lang thang bụi đời như vầy? Bộ không còn người thân nào? Em bệnh gì mà người em xanh rờn vậy? Em muốn đi đâu? Ai chờ em ở đó? Em tên gì?
Những dấu hỏi bầu bĩnh trùm lên mũi dao, và người ta chỉ cảm nhận sự sắc nhọn của dao khi nó bắt đầu chạm vào da thịt.
*
Gã gọi cô là Á. Cái tên sinh ra từ vụ tai nạn nhỏ, gã đã lơ đãng dập cửa trong lúc hỏi cô tên gì, tay cô bị kẹt trong đó, và cô thét lên "Á !". Đầu ngón tay trỏ của cô bẹp dúm và chỉ năm phút sau, nó sưng phù. Cô gái không khóc, dù đau lả. Gã áy náy định xoa dầu, nhưng cô lắc đầu, cô ngậm ngón tay đau cho đến khi nó cũng ướt đầm đìa, tê dại.
Cô vẫn câm lặng. Mà cô thì đi với họ đã hai ngày, và cuộc đi này có lẽ còn dài. Cô cần có một cái tên, để lúc gọi ăn cơm, lên xe hay xuống xe. Nhưng sau vài ngày, gã thấy tên cô có gì không ổn, nghe như tiếng kêu thét đau đớn, như một nỗi bàng hoàng, và nó gợi nhớ cái lỗi bất cẩn của gã, trong khi vết thương đã gần như lành lặn. Chiều đó ăn cơm xong, gã bất ngờ gọi:
- Mỹ Ái, lên xe!
Quà tặng đầu tiên làm cô mỉm cười.
*
Em có nhiều tên, ở rẫy bắp trong Mai Lâm, người ta gọi em là Lạc, trên những nẻo đường em đã đi qua, trẻ con gọi Câm ơi còn người lớn hỏi, "Em Cưng, đi đâu anh chở?". Tối hôm kia, trong một nhà chờ xe buýt bên đường, tên em là Lam. Người thảng thốt Lam ơi là một thanh niên mềm nhừ vì say. Cả tiếng kêu cũng xiêu vẹo, rã rời. Trong cái chuỗi lắp bắp trên môi là nỗi nhớ. Xe đạp. Chuyến đi. Đèo Mụ Mị. Gác chân nhau ngủ trong sương. Em nghĩ anh ta đang nói nhảm, anh ta không nói về mình, nên thản nhiên lấy mắt buộc những sợi mưa mỏng và dai ngoài kia. Rượu đã thấm tới lưng, nên lưng cũng không giữ gã trai đang ngày càng cong khẳm.
- Bữa ở trên đèo, tụi nó có tới sáu thằng. Mình đâu có bỏ chạy, mình chỉ tìm người tới giúp.
Gần như anh ta không giữ được cái đầu mình nữa, nó sắp rụng khỏi cổ. Cả người anh ta ngấm nước mưa, rượu và nỗi buồn, tất cả đã ướt đẫm tới xương. Chúng pha loãng máu, và trái tim mệt mỏi kia phải đẩy đưa từng dòng trong vắt. Em quẩy túi lên vai, em sợ cái cách chảy trôi tuột, trơn lẫy của những dòng máu loãng.
Em bỏ đi, chân sau đạp chân trước xước cả giày. Cảm thấy từ gót chân này một cơn đau nhói chầm chậm dâng lên. Như em chính là người tên Lam.
Mỹ Ái dường như chỉ là cái tên bất chợt. Em thích vì với em, nó không có quá khứ, không có nỗi buồn.
*
Cô gái ở lại cabin, bắt đầu từ hôm nôn trong một quán ăn, khi Dự bả lả nắm một cánh tay chi chít sẹo ghẻ và đắm đuối bảo một cô phục vụ là đêm qua anh đã chiêm bao thấy em, và chập chờn cả đêm, ướt đẫm cả đêm, "Anh thấy nhớ em khủng khiếp...". Cô rơi đũa, cong người bỏ chạy ra sau quán rồi loay hoay lên xe, không xuống nữa. Cô dường như chọn cái khoảng không chưa đầy hai mét vuông đó làm nhà.
Dự hơi sửng sốt, "đại ca, con nhỏ đó không bình thường…". Gã tọng một đũa rau vào miệng, ngốn cả lời của chính mình, "nó không chịu được chú mầy nói dóc".
- Vậy mắc mớ gì nó ói? - Đi hỏi nó. - Đại ca giỡn, nó câm mà. - Thì thôi.
Bằng cách dựng chuyện tầm phào, đồn đoán và bịa đặt, mỗi ngày họ bỏ ra một vài ý nghĩ, nói một vài câu về cô. Điều đó làm gã hơi ngạc nhiên, cuối cùng thì gã và Dự cũng có mối quan tâm chung.
Gã mua chiếc Landu này năm năm trước, với giá bảy mươi ba triệu, số tiền của hai mươi mốt năm làm bốc vác trong một nhà máy nước đá, lơ xe, phụ xế, và ôm vôlăng ăn gửi nằm nhờ trên những con đường. Chủ cũ tặng kèm một phụ xế tóc dài phủ mắt, đen quắt vì nắng và vì ngại tắm, già trước tuổi, tên Dự. Gã không cần Dự, nhưng chiếc xe tải thì cần, cậu ta thuộc cái tiếng xùng xèng kia phát ra từ đâu và mùi khét đó sẽ buộc họ dừng lại bao lâu, để sửa. Nếu nửa đường chiếc xe bỗng nghẹn ngào và chết máy, Dự ngó quanh hoang mang, trời ơi chắc muỗi xé xác tui quá, gã phải hiểu là đêm nay sẽ ngủ ở đây.
Năm năm đi với nhau, gã vẫn coi Dự là một hạt cơm nguội rời. Gã không cần gia đình nên không bao giờ xây dựng một gia đình. Đôi lúc tắm chung cũng không thèm nhìn vào cơ thể nhau. Gã có cuộc sống riêng, giấc mơ riêng và người đàn bà của mình vào những tối.
Nhưng cô gái mang lên xe gã quá nhiều bí ẩn và bất thường. Cứ nhìn cô gái xanh mét sau trận nôn mà không nén lòng được cứ phải buộc miệng, "nhìn con nhỏ ma quái quá…".
*
Em luôn có cảm giác mình nôn ra máu. Cứ sau mỗi trận nôn, người em rã ra, kiệt sức, không nghe tiếng tiếng máu chảy, tim thì cứ co bóp khan. Em thấy mình rất gần bờ chết, chỉ cách một gót chân thôi, em sẽ rơi vào dòng nước đen ngòm, rồi thì chìm xuống, mãi mãi. Hôm gặp lại cha, từ trường quay của chương trình "Giã từ lưu lạc", cha đưa em ghé qua nhà bác sỹ Lanh. Ông lật đật khám soi với đầy đủ những xét nghiệm quan trọng. Ông hỏi em nôn gì khi nãy, cha cười héo hắt, nhắc lại một bãi nôn khoai lang chua ngoét trước mặt bao nhiêu khách mời. Ông bác sỹ cười, chắc là ăn nhiều khoai chướng bụng không tiêu hóa được. Mà, cũng có thể do quá căng thẳng, xúc động, thất lạc nhau bảy tám năm chớ đâu có ít. Rồi ông xoa đầu em, chú mà xúc động, là chú ngứa mũi, nhảy mũi liên tục.
Hôm đó dường như ông cũng xúc động, cha em nói cha vừa ký quyết định nào đó cho bệnh viện nào đó, gương mặt bác sỹ rạng ngời. Ông âu yếm dúi vào tay em đơn thuốc, "Chịu khó truyền đạm, cháu nó coi bộ suy nhược lắm. Anh nói nó đã từng ở đâu, trong Mai Lâm hả ? Trời, hồi đi thanh niên xung phong tôi có ở đó, rừng thiêng nước độc lắm. Tội nghiệp cháu nó…".
Cái đơn thuốc làm cha tươi tỉnh và nhẹ nhõm. Cha không biết đó chỉ là tờ giấy vô vọng, với những nét chữ đổ tháo vô vọng.
*
Gió lẻ làm gã phải quan tâm nhiều tới chỗ ngủ. Bây giờ không thể bạ đâu nằm đó, trên sạp hàng hay sàn xe. Không thể ngủ trong cơn đùa nghịch dẳng dai của những cơn gió bị xé nhỏ bởi một bàn tay vô hình. Và từ khi lìa nhau, gió dằn vặt con người bởi nỗi ly tan của chính nó. Những cơn buốt lạnh chợt tới, chợt đi, thảng thốt. Đắp một tấm mền cũng là một cuộc tranh đấu nhỏ, bởi không biết bao giờ gió sẽ tới, trong thời gian đó, người ướt đẫm mồ hôi. Sự đùa cợt không bao giờ mệt mỏi. Đến mức người ta mòn mỏi thiếp đi thì gió lại dựng họ dậy theo cái kiểu lướt thật chậm từ chân lên đầu, như có một linh hồn, một bóng ma vừa đi qua âu yếm.
Để trốn gió, gã nhận chở bất cứ loại hàng nào, với cái giá rẻ nhất đi tới những người đàn bà của mình ở những điểm đến quen thuộc. Bằng cách đó, từng mùa gió lẻ đã đi qua đời gã êm đềm. "Khỏi tốn tiền trọ…", Dự cười hinh hích, cậu ta nghĩ vậy. Dự xa xôi với gã bởi những điều như thế. Dự trẻ, và ngơ ngác giữa cuộc đời ngơ ngác.
Nên dù nằm trong căn phòng ấm sực, cậu ta vẫn trằn trọc với cái kiểu gió đêm nay, "con nhỏ câm đó sao không chịu vô nhà…". Sáng sau gặp lại, không biết cô gái có bị gió làm xanh đi chút nữa. Hai chân có thể sẽ không duỗi thẳng ra được, vì gió vào cabin và cô gái bị đông còng queo.
Rẫy bắp ở Mai Lâm đón gió lẻ bằng những luống cây nghiêng ngửa. Vài ngọn gió cô độc đã nghênh ngang đi qua rẫy tạo ra một cảnh tượng buồn cười, chỗ thẳng chỗ xiên, rối bời. Buổi sáng thức dậy, gió làm những cây bắp đã trổ cờ ngã rạp tạo một tầm nhìn thấu vô nhà ông Tám Nhơn Đạo. Em thấy ông đang gội tóc cho bà vợ tật nguyền của mình. Bà nằm trên một cái ghế dài, một tay ông đỡ cái đầu nặng trĩu của bà, tay kia làm dội nước, rót dầu gội, rồi thì bàn tay to bè đó cũng chìm mất trong đống bọt trắng xóa.
Buổi gió làm cho việc gội đầu diễn ra nhanh hơn. Ông Tám ẵm vợ vô nhà, họ mất hút sau cái cửa tối. Em chậm rãi xoay người về phía cây bằng lăng. Những chòm sao tím thắp trên cây đã bị gió lùa rụng đầy đất. Từ lưu lạc, bầy sao bắt đầu nhuốm màu lam lũ, tả tơi.
Con Cò từ trong nhà ông Tám băng xăng bái xái chạy ra, mớ lông trên mép còn dính chút mỡ cháy. Nó vừa đi vừa sủa sửng sốt, dù đã sủa suốt đêm qua, dưới ánh sáng ban mai, cảnh vật trên rẫy trở nên xa lạ. Nóc căn chòi em ở xù lên phơ phất, như tóc của một người vừa ngủ dậy.
Trong mớ âm thanh quen thuộc của lũ kiến chạm chân trên đường rời tổ, của muôn vạn cái lá dập xao xác, những giọt sương sẽ sàng rụng xuống, tu hú kêu vang trong bờ sậy, có lẫn tiếng cây đang ứa nhựa hàn gắn vết thương, nơi nụ hoa lìa.
*
Dự hay dậy sớm, lúc ngồi dậy với cái lưng đau ê ẩm, cậu tung cửa chạy ngay tới chiếc Landu xem cô gái có còn… sống. Dù cô đang ngủ cậu vẫn gọi cô dậy, xác nhận cô còn có thể mở mắt, Dự nhoẻn cười, nói một câu vô nghĩa, "hên dã man…".
Nhìn cô sống, Dự cảm giác mình cũng sống, với những tia hy vọng ngập ngụa trong lòng. Sự sống tồn tại trong mùa gió lẻ khắc nghiệt, ở nơi nào đó, chắc bà nội cậu cũng đang thức dậy, hé mắt ứ hự chào ngày mới. Trong cơn cao hứng, đôi lúc Dự đã đu lên vai gã, thân thiết như đứa em nghịch với anh trai. Gã cau có, gã không thích những va chạm này.
Vì Dự căm ghét những con đường. Những lúc dừng xe lại, chạy lại giở nón của một người hành khất để tìm khuôn mặt già nua quen thuộc, Dự nguyền rủa con đường đã mang bà nội cậu đi, bảy năm trước. Gã ngồi im lặng trên xe, nhìn cái lưng trĩu thất vọng của Dự, và nghĩ, lựa chọn yêu thương con người đồng nghĩa với việc mất mát những niềm vui. Đồng nghĩa với cái chết, sự lìa bỏ, sự phản trắc, tan vỡ…
Gã thì yêu thương say đắm những con đường. Chúng luôn tồn tại, sinh sôi tươi mới. Một con đường không có cái chết. Một con đường luôn biết chờ đợi.
*
Em thích nhìn gương mặt người chủ xe sau buổi cà phê sáng. Môi ông ngậm một điếu thuốc lơ đãng, lên ngồi sau tay lái và im lặng một thoáng, trước khi vào cuộc hành trình. Khói thuốc cùng những giọt cafe còn đọng trên bộ râu tua tủa làm vẻ mặt của ông lung linh. Sau đó thì khuôn mặt chỉ còn một sự trầm mặc quánh lại, và trên người ông chỉ còn nhịp điệu của nỗi buồn.
Một con người buồn bã.
Mỗi lần qua một khúc quanh, hay khi phải phóng tầm mắt xa về phía trước, em nhận ra nhịp tim của ông giống hệt em, máu chảy về đó rất ơ hờ, lãnh đạm, tựa như không máu cũng chẳng sao, tim vẫn lay đúng nhịp. Không có gì sau ngã rẽ này hay phía trước kia, chờ đợi.
Người còn lại ngồi cạnh em thì ngược lại, hơi thở của anh ta luôn rộn ràng. Anh háo hức chăm chút từng khoảnh khắc, từng biến đổi cảnh sắc trên từng đoạn đường mà chiếc Landu cũ kỹ đi qua.
*
Cô gái không còn tiền, buổi chiều mua cho cô hộp cơm, gã nghĩ tới chuyện để cô xuống chợ Mỹ Đức, nơi chút nữa xe dừng lại giao những bó lác trói cua. Tới chợ thì trời tối, chủ hàng bảo chờ sớm mai sẽ thanh toán tiền công. Gã lặng lẽ quẳng đôi giày cô gái xuống xe, tiếp theo là túi xách và sau cùng là cô gái, bờ vai u nhã lọt thỏm trong bàn tay gân guốc, chai sạn. Dự nhìn thấy hơi có chút bất nhẫn, "tội nghiệp con nhỏ…".
Cô gái như biết trước kết cuộc này, nên dạt đi nằm bên thềm chợ. Cô co lại trong gió lẻ, vẫn cái vẻ nín nhịn câm lặng nhưng vì chợ rộng quá nên ngó nhỏ nhoi, tha thủi. Gã cố không nhìn về đó dù Dự cứ liên tục chắc lưỡi hít hà. Chuyển hết hàng thì gần nửa đêm, Dự nói, "làm một giấc tại chỗ, lấy được tiền là dọt luôn, khỏi mất công kiếm chỗ ngủ, đại ca…". Cậu ta muốn nấn ná thêm, biết đâu ông chủ sẽ nghĩ lại, vớt cô gái theo cùng.
Khoanh tròn trên một sạp hàng tạp hóa, Dự thiếp đi trong hy vọng mong manh. Gã ngồi quanh đó, hút thuốc đến mòn mỏi. Mới thiu thỉu, vẫn nghe gió lẻ rờn trên mặt thì cô gái hét lên, nghe như một cái tách rơi vỡ xuống nền nhà:
- Lửa!
Gã và Dự tốc chạy qua cánh cửa khói quặn đen ngòm. Dự không quên kéo cô gái theo. Đi khỏi con đường hẹp bên hông chợ, một đám cháy đã nhói lên trong kính chiếu hậu. Đêm ngưng đọng trên đường về. Gã thấy mộng mị, tiếng thét của cô gái, đám cháy… Những tàn thuốc của mình đã gây tai họa, gã giấu ý nghĩ đó vào lòng.
Sáng hôm sau, tivi nói rằng chợ Mỹ Đức cháy rụm, chỉ còn cái khung bê tông ám khói, hàng tỷ đồng hóa thành tro bụi, họ đang tìm nguyên nhân. Gã gần như úp mặt vào tô hủ tiếu, cắm cúi ăn. Dự hớn hở thấy mình thoát chết, cứ chống đũa thắc mắc:
- Ủa, tưởng đâu con nhỏ câm thiệt. Tự dưng phát lên nói là sao, trời?!
Người có thể trả lời thì ngồi ngoài xe. Gã ngờ ngợ, không biết số phận đã làm nên đám cháy đó hay chính cô gái muốn vậy. Giờ bỏ cô lại, biết đâu cô sẽ kể cho ai đó nghe vụ cháy ở chợ Mỹ Đức. Cô có câm đâu.
*
Hồi sáu tuổi, có lần em lén lấy dao cạo râu của cha để tỉa lông cho con chó Lu Lu, không ngờ vì chuyện đó mà cha mẹ cãi nhau, cha chỉ vào em, hỏi mẹ, từng từ khít như máu rỉ qua kẽ răng, "cô lấy thằng nào mà đẻ ra cái thứ này?". Mẹ em không trả lời, lẳng lặng vào phòng, khóa cửa trong. Ba giờ sau cha tìm thấy mẹ em treo mình đung đưa trên xà nhà. Lưỡi trả lại cho cuộc đời, bởi người không chấp nhận sự vô dụng của nó, nói mà chẳng người nghe.
Em đứng nhìn mẹ, đái dầm vì sợ. Bà Chín ở bên cạnh bịt mắt em, tay bà khô quéo không khép chặt được, trước khi vào phòng thay quần áo, em vẫn thấy gương mặt bị biến dạng của mẹ. Khi em quay lại với cái áo đầm mới màu vàng chanh, bà Chín bắt đầu khóc hức lên, chua xót, "trời đất ơi, kiếp người sao mau như nấu gói mì tôm vậy…?".
Suốt hai ngày lễ tang của người đàn bà tuyệt vọng vì phát hiện mình bị ung thư dạ dày, như cha em buồn bã kể, em ngồi dựa vách chỗ đặt quan tài của mẹ, lặng thinh đốt giấy vàng mã, từ tay em lửa nối vào lửa, không bao giờ tắt. Mặt em, tay em nóng rực như sắp tươm máu ra. Cuối ngày, bỗng bà Chín níu cha em, hớt hải:
- Sao mấy ngày nay con nhỏ không nói năng gì?
Cha quay lại nhìn em, thoáng nhẹ nhõm. Sự câm lặng cần thiết cho những bí mật.
Câu hỏi đầu tiên mà Dự chuẩn bị sẵn, rất đơn giản, "nhà cửa ở đâu mà đi bụi, hả em cưng?" nhưng cô gái không trả lời. Cô vẫn không có vẻ gì muốn nói. Giống như tiếng thét ở Mỹ Đức chỉ là một giấc mơ.
Gã nghe trong cái im lìm của cô là sự nhẹ nhõm của chính mình. Gã không bao giờ hỏi ai một câu tương tự, bởi người ta sau khi trả lời luôn muốn hỏi lại, "còn anh ?". Gã chưa bao giờ trả lời, kể cả với những người đàn bà gã ôm trong lòng. Đó là câu trả lời mặn sẵn, làm rộp bỏng môi, như nước biển.
*
Từ Thổ Sầu qua thành phố, tránh kẹt xe, nên ông Buồn (là em tự gọi vậy) đã lái chiếc Landu đi tắt qua những con đường ven đô. Em sực nhớ em vừa ngang qua nhà. Cổng cao và nhiều hoa giấy đỏ. Nó đã tinh tươm trước khi em trở về. Và sau đó thì vương vãi những bãi nôn.
Nhiều người mang quà tới chúc mừng cha và em, họ nói một cuộc sum họp được truyền hình trực tiếp trên ti vi làm họ khóc muốn chết. Họ không ngờ cuộc đời của chủ tịch lại nhiều bi kịch vậy, vợ đầu chết, con gái thất lạc gần mười năm trời. Phải có ý chí cao lắm, nghị lực khủng khiếp lắm mới vượt qua những nỗi đau riêng mà lo cho chuyện chung. Em nghe những điều đó với một chút ngẩn ngơ, rồi nôn, muốn chạy tới phòng vệ sinh nhưng chẳng nhớ nó nằm đâu, nên thức ăn lộn ngược ra thảm. Ngày khách nhiều em nôn nhiều lần. Chị Băng nói vậy thì cứ nằm trong phòng.
Thật ra khách cũng không cần gặp em, khách chỉ muốn chị Băng nhớ là họ đã đến, và con chó xù nhồi bông ngoại nhập kia, chiếc vòng bạch kim kia, cái túi xách đắt tiền kia… là của họ tặng cho em. Chị Băng nhớ thì chị sẽ nói lại, khi cha về. Công việc của chị Băng, là làm cha em nhớ tới họ.
Chị còn chuyện quan trọng mỗi buổi sáng, là đi mua thức ăn cho bầy cá sấu trong chuồng. Chị chạy xe máy đằng sau máng hai cái giỏ lặc lè. Người ở chợ quen với cảnh tượng này, ai cũng khen vợ lãnh đạo mà chịu cực giỏi, chớ vợ mấy ông kia, giờ này còn ngoài sân quần vợt. Chị Băng cười, ngồi không trông vào đồng lương của ổng, thì chịu không nổi.
Chuyện chị Băng nuôi cá sấu xây biệt thự ai cũng biết. Ai cũng nuôi cá sấu mà rồi không ai xây biệt thự.
*
Dự sốt cao, nằm lại một chỗ quen ở Lạc Mai, chuyến hàng đi Đập Đá chiếc Landu trống chỗ. Gã không thấy chênh chao mảy may nào. Gã quen với sự tạm bợ và vô định, ngày mai thức dậy, có thể Dự đã vĩnh viễn về nhà, vì đã tìm được bà nội dù còn sống hay chỉ nắm xương tàn rã. Cô gái đang ngồi đây cũng vậy, cô lên xe bằng cái ý nghĩ bất chợt nào rồi một ngày, vì ý nghĩ bất chợt, cô sẽ lặng lẽ xuống xe. Chỉ còn gã và những con đường. Gã không muốn từ bỏ cái cuộc sống này, khước từ mọi cơ hội trở lại như người bình thường, cạo râu cắt tóc, ăn mặc thẳng thớm chỉnh tề, sáng sớm thức dậy uống càphê, ăn phở rồi chạy xe tới sở làm, yêu một người và lấy làm vợ.
Xe đi một qua một cánh rừng cao su đang thay lá thì mưa nhỏ. Mắt ngó qua cửa kính nhòe nước, cô gái thốt nhiên nói "Biết nước khóc chừng nào rồi?".
Giọng cô đầy ngượng nghịu. Gã buồn cười, chắc đã lâu lắm ngôn ngữ rời bỏ cô gái này, và khi chúng ùa trở lại trong một cơn lốc, cô phải xóc xổ khối hỗn độn đó, nhặt lấy từng từ chắp nối thành câu.
- Để đào cho.
Buổi cơm tối, sau khi chuyển hàng xuống xe xong, cô giành bới cơm. Gã suýt mắc xương vì chữ "đào". Gió thổi ngoài kia cồn cào, vẫn là cái thứ gió xé nhỏ đau đớn buốt lạnh. Gã lái xe chậm rãi tìm nhà trọ, cái thị trấn nhỏ bắt đầu đóng cửa tắt đèn.
*
Nằm nhìn trăng trôi trong rẫy bắp, em từng nghĩ, khi mình nói trở lại, câu đầu tiên là gì ?
- Mầy đừng liếm chân tao, nhột lắm!
Câu đó em sẽ nói với con Cò. Nó hay làm em tỉnh giấc bởi sự hí hửng vô chừng, chỉ là bóng trăng, lá rơi hay mùi một con chó cái xa xa… Cái lưỡi ướt lạnh của nó bắt đầu lượn lờ lên gót chân rồi lên đến bắp chân, đầu gối em. Những cơn rùng mình từ đó chạy lên đỉnh đầu, làm nên một vòng sóng ran cả người.
Em ghét cảm giác đó, nên em định nói với con chó. Nhưng rồi em lại nói câu khác :
- Đi.
Đó là buổi sáng em bỏ lại rẫy bắp sau lưng, đi dọc theo con đường chập chờn lau lách, xập xòe bướm bay. Em tới một ngã ba, gặp một cái quán nước thưa người. Con Cò lẽo đẽo đi theo, thật ra cái từ "đi" nó chẳng hiểu, vì em chưa từng nói, nhưng nó biết có cơn đau nào đó đang xảy ra, bằng những tia máu vằn trong mắt, bằng chuyển động của ngón tay, của cái hất mặt, nhíu mày, của bước chân oằn trĩu…
*
Ba ngày nằm bệnh với Dự như bằng ba năm. Nằm trong chăn, cậu hình dung chiếc xe tải sáng nay đi ngang qua một ngôi miếu nhỏ, bà nội Dự đang nằm ngủ trong đó, nón lá rách úp mặt, đầu gối trên chiếc bị bàng cũng rách. Bảy năm lưu lạc rách nát thân già. Mình đã bỏ qua cơ hội tìm thấy bà, ý nghĩ đó làm Dự không yên. Ngày mai, cũng qua cung đường đó, cái miếu đó, nhưng bà nội không còn ở đó nữa. Những con đường đã cuốn bà trôi cùng chúng.
Dự cầm tấm hình của bà nội, nó đã quăn queo, nhàu nát. Hàng trăm bàn tay đã cầm nó lên, khi trả lại kèm theo những cái lắc đầu. Ngày Dự đi khỏi nhà với cái đầu cạo trọc bóng, như một lời thề, "không tìm được bà nội con không về…". Mẹ Dự sụt sùi, "thiên hạ mênh mông, biết đâu mà kiếm hả con ?".
Dự không tin thiên hạ lại rộng hơn cái thành phố này. Lòng cậu bị một cái dằm thép cháy đỏ trong đó, cháy từ buổi trưa Dự bỏ cuộc bi-a với bạn để chạy về nhà coi chừng bà.
- Bà nội báo hại con quá. Phải bà chết sớm con khỏe.
Dự ngờ rằng, vì câu nói trong lúc dằn dỗi này mà bà nội bỏ đi. Dự phải tìm bà, quỳ dưới chân xin lỗi… Bây giờ thì cũng chẳng nhớ sẽ nói với bà những gì, khi gặp lại. Tất cả đã mỏi mê, Dự tìm bà chỉ vì muốn tìm, vậy thôi.
Nằm quẩn quanh hết giường tới võng, không lái xe, không khuân vác, không lau dọn, trêu ghẹo cô giúp việc của chủ nhà rồi cũng chán, Dự thấy rã rời, ừa thì mai đây tìm được bà nội, rồi sau đó? "Sau đó" là một cái một khoảng trong veo vô tận.
Buổi chiều chiếc Landu quay lại, Dự nhảy ào ra cửa, mừng húm, cảm giác xa lâu lắm rồi. Một phần là do cô gái, khi trở lại, cô đã biết ngọng ngịu nói vài câu ngớ ngẩn, "có mắc rảnh không?" hay "nút áo rời kìa". Dự mắc cười quên cơn ớn lạnh, lúc lau dọn chỗ sàn xe thủng, cô gái ngậm ngùi "chỗ đây rách rồi…".
*
Em chẳng nhớ là mình đã nói câu gì khiến ông Buồn mỉm cười, hôm đó. Bắt đầu từ miệng, nụ cười bùng ra, gương mặt ông rạng rỡ, như có một hòn than sẽ sàng cháy, làm rựng hồng lên những tro lạnh chung quanh.
Lúc lời bật ra khỏi môi, thì em đang nghĩ tới tổ chim sâu trên nóc căn chòi cuối rẫy. Chẳng biết chuyện ở đâu mà chúng nói ríu ran cả ngày. Em hình dung vầy, con chim chồng nói :
- Anh vừa gặp một con voi chết trong rừng.
Vợ nó hỏi ngay, trời sao con voi đó chết? Vậy là giả thuyết được đặt ra, và câu chuyện trở nên bất tận, hết con voi thì tới đàn kiến đang bò đi, chắc là bò tới chỗ con voi, rồi nước suối chảy vòng qua xác con voi, rồi cái tán cây phía trên con voi. Hôm sau thì tới chuyện một cành hoa rụng. Câu chuyện trong trẻo và vui nhộn không bao giờ chấm dứt, bất chấp mưa, nắng, bất chấp gió lẻ gió bầy. Em luôn nghĩ, không biết trên thế gian này có con chim nào tìm tới cái chết vì tiếng hót của con chim khác ? Có con chó nào bỗng dưng đâm đầu vào đá vì tiếng sủa của con chó khác? Có con bò nào nhảy xuống sông tự chìm chỉ vì tiếng kêu của con bò khác ?
Tiếng nói của con vật không dùng để làm tổn thương nhau, em nghĩ. Cho đến bây giờ em cũng nghĩ vậy. Nên khi em nói theo kiểu - của - chim, đã làm hai người họ phì cười. Có lần em đã học nói giống con người, chỉ vài từ ngắn ngủi thôi, nhưng em mướt mồ hôi, kiệt sức :
- Sao ông buồn vậy?
Và người được hỏi cau mặt, phun một bãi nước bọt. Có vẻ ông không thích tiếng người.
*
Những lúc cạo râu, gã mới nhìn lại mình. Trong gương là khuôn mặt của cha gã, đôi mắt sâu của mẹ và đôi mày rậm ngang tàng của anh trai. Tất cả họ đã chìm, hoặc trong biển sâu hoặc trong lòng nước Mỹ.
Gã còn lại những con đường. Gã đi làm lơ xe khi chỉ mới mười ba tuổi. Với vài ba bộ đồ, gã đi khắp, đi theo kiểu con vắt trong vườn chuối mùa mưa, chỉ cần một điểm tựa, con vắt búng mình đến một nơi và từ nơi đó, nó lại vươn ra đi tiếp. Chỉ khác là vắt cần máu để sống, gã chỉ cần được đi.
Dự gặp gã lần đầu thì gọi đại ca, bởi "“em nhìn là biết dân giang hồ liền…". Với vẻ lì lợm cố hữu, vong gia thất thổ, lấy xe làm nhà, lấy những con đường làm bầu bạn, lâu lâu ghé qua ngấu nghiến đàn bà, lơ đảng những món tiền kiếm được... gã giang hồ hơn mọi giang hồ.
Giờ dù quanh quẩn đi lại ở mấy chợ quen, nhưng gã vẫn không lấy làm buồn. Những con đường đó vẫn biến đổi mỗi ngày: cô chủ quán đã cắt tóc cao, cây me tây thay lá, thêm cái tủ thuốc lá được đặt bên vỉa hè, những thùng rác được thay mới, một bảng hiệu đã sơn lại, vài cái đèn đường tắt, panô giăng ngang đầu "Giải quần vợt mở rộng" hôm nay đã bị mưa làm rơi mất chữ t…
Chẳng bao giờ những con đường lại biến mất sau giấc ngủ quên trên gác xép, như cả nhà biến mất, khi gã lên tám tuổi.
Còn tiếp...
Nguyễn Ngọc Tư (Trích Gió lẻ và chín câu chuyện khác, NXB Trẻ, 2008)