Paolo Giordano là một trong số rất ít tác giả trẻ [anh sinh năm 1982] tôi đọc. Quyển đầu tiên của anh được dịch sang tiếng Việt, cũng là tiểu thuyết đầu tay Nỗi cô đơn của các số nguyên tố [tôi từng nhắc đến ở đây https://emidelicate.blogspot.com/search/label/Paolo%20Giordano?m=0, không tìm được link fb, hôm nay tìm mấy thứ ghi chép lung tung ở fb cũng không thấy, cayyy] tôi đọc cách đây 14 năm, và ngay lúc ấy tôi nghĩ, và đến giờ tôi vẫn nghĩ điều tôi cho lúc ấy, đúng đến tận giờ rằng, tôi sẽ đọc tác giả này. Một nhà nghiên cứu vật lý [vật lý lý thuyết] viết văn, một tâm hồn bập bềnh văn chương trong một nhà khoa học tự nhiên, như Giordano từng nói: "Viết văn và hoạt động khoa học đều cùng nảy sinh từ sự ham mê tìm tòi. Văn học là công cụ hoàn hảo để nghiên cứu tâm hồn. Có lẽ tôi bị ám ảnh bởi điều này, bởi lòng ham mê tìm tòi nghiên cứu"
Bầu trời và mặt đất là câu chuyện về tuổi trẻ với những hành động phóng túng mãnh liệt quyết định trạng thái sinh tồn, về tình yêu tình anh em tình bạn, về những đứa trẻ cùng nhau lớn lên, về các thiên thần nổi loạn khuấy đảo thiên đường rồi từ thiên đường rớt xuống [theo ngôn ngữ Kafka: trục xuất, bị đuổi khỏi thiên đường] lao vào hố sâu trên mặt đất này [hãy nhớ những gì được nói ở trang 269 đến 271], về lòng sùng kính và những sai lầm vì chính lẽ ấy mà con người phạm phải "nhiệm vụ của chúng ta là khuấy đảo thiên đường và lẽ phải thuộc về ai đang sống". Một cuốn tiểu thuyết không cần quá tinh ý cũng nhận ra nó được viết về chính thế hệ của tác giả; Giordano tạo ra những nhân vật như mảnh lục địa trôi, những tính cách nhân vật độc đáo - có thể dùng, nhân cách phi thường; khiến tôi vừa lấy làm sửng sốt vừa lại coi là hiển nhiên - tác giả là tiến sĩ vật lý đấy, là một người nghiên cứu về vật lý lý thuyết đấy mà, hẳn phải là như thế. Ở Nỗi cô đơn của các số nguyên tố, là những liên tưởng cặp số trong toán học với những con người như bị ném vào vũ trụ của những con số những bí ẩn của các dãy số, một cách đầy hào phóng và thơ mộng; còn ở Bầu trời và mặt đất, ta sẽ bắt gặp những ý nghĩ: năng lượng mặt trăng xuyên thấu qua đất mạnh hơn năng lượng mặt trời và điều đó giúp quá trình nảy mầm... cây cối được bao bọc an toàn trong chậu có những chùm rễ dài xoắn chặt vào nhau lại là những cây không bao giờ thích nghi được với đất mẹ, chỉ những cây nào có rễ tự do, bị bật rễ lúc còn non ngay giữa mùa đông mới có khả năng tồn tại - như những nhân vật ở đây vậy. Những mảnh lục địa trôi lớn lên cùng nhau, những lần thủ dâm cùng nhau, thời gian cùng nhau ngồi dưới giàn dây leo, những lần ngủ trên cây để cùng nhau ngắm sao băng nằm nhìn trời đêm tối sẫm cảm giác mình là một phần của điều gì đó lớn lao, chính lúc ấy báo hiệu một tình yêu mãnh liệt đến đáng sợ không chỉ tình yêu cây cối mà là tình yêu dành cho vạn vật và tất tật mọi thứ, nó khiến người ta không thở được, bị bóp nghẹt. Là người đọc, được chứng kiến tất thảy câu chuyện, sự thực về ai đó, về bất cứ ai, đơn giản không bao giờ tồn tại; ta không bao giờ hiểu trọn vẹn một ai cái gì điều gì bất cứ gì - tất tật, đừng bắt đầu nghĩ và làm như ta có thể; ta hiểu về ai đó đúng như những gì ta cần biết về họ, vậy là đã rất đủ; không phải ta như sực hiểu ra điều trước giờ vẫn hoàn toàn nằm sau bức màn hoặc ta từng nghĩ ta không thể hiểu nổi mà giống như ta bắt được bông bụi chập chờn bay trên không sau một thời gian dài dõi mắt... như ta một ngày hiểu được phase phân tán của huyền phù trong một hệ
Bầu trời và mặt đất, với một xuất phát điểm như vậy trong tôi, ngay từ đầu đã chịu sự kỳ vọng lớn và cùng lượng ưu ái. Những trang đầu tôi mỉm cười với chính mình vì đọc dễ chịu quá, mình biết là mình sẽ không thất vọng mà; nhưng đi thêm độ mấy chục trang, tôi bắt đầu hồ nghi, liệu mình có quá dễ dãi với điều mình yêu thích không, bắt đầu thấy đây là những trang viết yếu ớt rồi, motif này không phải quá nhàm chán hay sao: những ẩn dụ Kinh Thánh. Và sau khi kết thúc quyển sách, tôi lại chính là người tự hỏi mình: trong những thời khắc đọc Kinh Thánh, mỗi khi vào nhà thờ hay khi tôi hát những tiếng Amen hallelujah bằng trái tim và tâm hồn mình, tôi có thực là không tin điều tôi tin như tôi vẫn hay nói ra miệng rằng tôi không phải người tin Chúa, "ta trốn chạy khỏi người để trở lại với người". Và rồi câu chuyện vẫn tràn ngập các ẩn dụ Kinh Thánh nhưng những bước tiến tâm lý nhân vật, những tình tiết và cách kể chuyện đan xen khiến tôi bị cuốn vào, khiến tôi suy nghĩ trong hưởng thụ: dẫu tôi là người bi quan hễ cứ có điều gì đau đớn diễn ra ở mặt đất này, tôi đều hồ nghi sự hiện hữu của Chúa của lòng sùng kính trong tôi với Đấng mà tôi không ở trong đất Người dù từng vô thức làm báp-têm - Chúa có đó không, kế hoạch gì mà con của Người phải chịu đau đớn bất hạnh nhường này; không phải phúc âm Matthew mà phúc âm John mới là kinh về linh hồn chuyển vị, sự đầu thai của linh hồn, như Bern được nằm lại nhà vườn qua quyển sách yêu thích Nam tước trên cây cùng lời kinh John
những mảnh lục địa trôi ấy - họ giải phóng bầy ngựa khỏi bị giết thịt, họ tranh đấu cho những rừng cây bị chặt hạ, họ đọc Cuộc cách mạng một cọng rơm - nông nghiệp vô vi: không làm những gì thiên nhiên có thể tự hoàn thành, họ muốn hiểu rõ trí khôn của thiên nhiên, muốn triệt để khai thác trí khôn ấy và muốn tái tạo, tái tạo mọi thứ đã bị tiêu dùng thật tàn bạo trên mảnh đất dưới chân họ. Mảnh lục địa trôi thu hút nhất - Bern, là mảnh đọc Nam tước trên cây và đọc The ego and its own cùng nhiều giờ hiến mình trong thư viện, cũng là mảnh sùng kính và tội lỗi đi liền nhau [Nam tước trên cây là tác phẩm tôi thích nhất của Italo Calvino; tôi đọc Italo Calvino cũng tương đối, để ở vai trò người đọc không đi qua ranh giới của nó, không dại mà thử đặt chân (dẫu tôi cũng đã thử không chỉ một lần, không chỉ một vai trò) sang vai trò khác, như tôi, cũng là tôi được Calvino chỉ dạy, tôi nghe lời khuyên ấy (dẫu chính Calvino lại không hẳn là thế, căn cốt của nhà văn nào cũng là người đọc cả, ông hơn cả một người đọc cự phách, sâu rộng hơn rất nhiều)]. Bern là một thiên thần với sức chịu đựng con người và cuộc sống ở mức phi thường, Bern đã như Nam tước trên cây - từng sống trên cây, trong toà tháp đổ nát, một mảnh đất tên nhà vườn với ngôi nhà không có điện và cuối cùng là sống và ở lại vĩnh viễn [một trong những cảnh từ biệt đẹp và đau đớn tuyệt vọng nhất trong lịch sử đọc tiểu thuyết của tôi là ở Bầu trời và mặt đất] trong băng đá trong hang động sâu dưới lòng đất thông với cánh đồng nham thạch, Lofthellir [đây là một hang động có thật, nó là ice cave ở Bắc Iceland]. Kẻ đã mạo hiểm đặt chân vào cấm địa của hang đá tuy tồn tại nhưng lại không hề tồn tại với phần còn lại của thế giới ngoài kia, đã sống một đời ngắn ngủi, đã không ngừng yêu thương cả trái đất và bầu trời bằng tất cả sự phóng túng và mãnh liệt được ban tặng cho một con người
giữa bầu trời và mặt đất, luôn có những điểm chạm dịu dàng đâu đó trong không trung, trong vòng tay của Người. Ta trốn chạy khỏi Người để trở lại với Người, như thiên thần rơi khỏi thiên đường xuống mặt đất và phủ định sự tồn tại của thiên đường [bị trục xuất khỏi thiên đường đâu có nghĩa là thiên đường không tồn tại] để rồi tìm đường trở lại "tất cả đều thuộc về chúng ta. Cây cối và những bức tường đá. Thiên đường. Cả thiên đường cũng thuộc về chúng ta". Ở nơi ấy, những tia sáng xanh cùng phát ra từ một điểm ở đường chân trời rồi tản ra như khói
vĩ thanh: tối qua khi tôi ngồi viết văn bản này, một người đàn ông chạc 35 tuổi với balo trên vai dừng lại cửa nhà tôi hỏi đường đến Long Biên; tôi bảo xa lắm, cách đây chừng 9-10km, không đi bộ được đâu khi không biết đường và hỏi thăm từ đây, rồi thì nếu cần tôi sẽ gọi xe chở đến đấy cho; nhưng anh ta bảo tôi: chị cứ chỉ đường đi, tôi đi được; nhìn thái độ cương quyết của anh ta, tôi liền nghĩ đến những người trẻ trong Bầu trời và mặt đất - the fallen angels